Friday, August 2, 2019

Du lịch Sinh thái Nông nghiệp Việt Nam



DU LỊCH SINH THÁI NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TS. Hoàng Tố Nguyên, TS. Hoàng Long, TS. Hoàng Kim 2018
.

Tiếng Việt văn hóa kinh tế 学中越文 Tổng quan văn hoá và kinh tế xã hội Việt Nam 越南社会经济和文化概述 là tập bài giảng về du lịch sinh thái nông nghiệp Việt Nam, một môn học giao lưu du lịch sinh thái nông nghiệp ngôn ngữ văn hóa Việt Nam Trung Quốc. Ngày nay các nước trên thế giới đang đối mặt với một cơ hội và thách thức chiến tranh và hòa bình là sự an toàn sinh thái ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn quốc gia và an sinh toàn cầu. Sự biến đổi mới môi trường toàn cầu và sự phát triển lớn lao của sự nghiên cứu đất nước con người học du lịch sinh thái nông nghiệp văn hóa kinh tế ngôn ngữ là đặc biệt cấp thiết cho sự đối thoại trực tuyến của lớp trẻ khát khao hiểu biết. Bài giảng này mục tiêu nhằm cung cấp một kiến thức nền tảng ‘Việt Nam Học’ thật giản dị, cấp thiết và lắng đọng về phẩm chất văn hóa thân thiện, tốt đẹp, văn hiến của con người đất nước Việt Nam. Người Việt, tiếng Việt và nông nghiệp Việt Nam là ba di sản quý của nhân dân ta, dân tộc ta, cấp thiết phải bảo tồn và phát triển. Tài liệu này dần liên tục hoàn thiện.

Nông nghiệp là một trong ba ngành kinh tế Việt Nam: 1) Nông lâm thủy sản; 2) Công nghiệp , bao gồm: khai thác khoáng sản, công nghiệp chế biến, công nghiệp vật liệu xây dựng, sản xuất phân phối khí, điện, nước,…; 3) Thương mại, dịch vụ, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế. Tỷ lệ phần trăm các ngành này đóng góp vào tổng GDP, ước tính năm 2015 là: Nông nghiệp 17.4% Công nghiệp 38.8% Dịch vụ 43.7%.

Nội dung bài Du lịch sinh thái nông nghiệp Việt Nam có 7 ý chính: 1) Nông nghiệp là nền tảng của kinh tế Việt Nam. 2) Bảy vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam; 3) Đặc điểm bảy vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam; 4) Hiện trạng tầm nhìn lao động nông nghiệp Việt Nam;  5) Du lịch sinh thái nông nghiệp Việt Nam; 6) Nông nghiệp Việt Nam ngày nay. 7) Việt Nam điểm đến yêu thích của bạn

I. Nông nghiệp là nền tảng của kinh tế Việt Nam

1.1 Người Việt trọng nông 


Thành ngữ Việt Nam: “dĩ nông vi bản” (lấy nghề nông làm gốc). Nông nghiệp là nền tảng của kinh tế Việt Nam vì đất nước là môi trường sống, thức ăn là căn bản của đời sống con người. Việt Nam là chốn tổ của nền văn minh lúa nước với các di tích khảo cổ về người tiền sử và các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn gần 10.000 năm trước Công nguyên đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi. Nông nghiệp Việt Nam ngày nay đang vượt ra khỏi sản xuất nông nghiệp truyền thống không chỉ tạo ra lương thực thực phẩm cho con người (food) thức ăn cho các con vật (feed) mà còn là nguyên liệu của các ngành công nghiệp may mặc, sợi dệt, chất đốt, cây cảnh và sinh vật cảnh, chất hóa học, cơ giới hóa nông nghiệp,  sinh hóa học nông nghiệp. các loại phân bón, thuốc trừ sâu, diệt cỏ.

1.2 Ba di sản lớn nhất  Việt Nam

Người Việt, Tiếng Việt và Nông nghiệp Việt Nam là Ba di sản lớn nhất  Việt Nam cần bảo tồn và phát triển.Việt Nam là đất nước của 54 dân tộc (và 1 nhóm “người nước ngoài”, trong Danh mục các dân tộc Việt Nam, theo Quyết định số 421, ngày 2/3/1979 Tổng cục Thống kê).

Người Việt
chủ yếu là dân tộc Kinh (chiếm 86,2 % dân số) sinh sống trên khắp toàn thể nước Việt Nam và một số nước khác nhưng đông nhất vẫn là các vùng đồng bằng và thành thị trong nước. Người Kinh sống rải rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam, nhưng tập trung nhiều nhất ở các đồng bằng và châu thổ các con sông. 53 dân tộc Việt Nam thiểu số còn lại sinh sống chủ yếu ở miền núi và trung du, trải dài từ Bắc vào Nam; hầu hết trong số họ sống xen kẽ nhau, điển hình là cộng đổng dân tộc thiểu số ở phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Các dân tộc thiểu số đông dân và có số lượng dao động trên dưới một triệu người gồm Tày, Thái, Mường, Khmer, H’Mông,  Nùng, Hoa, người Dao, Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Sán Dìu, Ra Glai,  Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Các dân tộc dân số ít nhất chỉ trên 300 người như Brâu, Ơ đu và Rơ Măm.  Các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển không đồng đều. Ở Trung du và miền núi phía Bắc, các cư dân ở vùng thấp như Mường, Thái, Tày, Nùng sinh sống chủ yếu bằng canh tác lúa nước và nương rẫy, chăn nuôi gia súc và gia cầm, có một phần hái lượm, săn bắn, có nghề thủ công khá tinh xảo. Các dân tộc thiểu số ở phía Nam sống biệt lập hơn. Các dân tộc thiểu số ởTây Nguyên phần lớn sống theo tổ chức buôn-làng, kiếm sống dựa vào thiên nhiên mang tính tự cung tự cấp. Người dân tộc Chăm, Hoa và Khmer sống ở vùng duyên hải miền Trung và Nam Bộ có trình độ phát triển cao hơn, tạo thành những cụm dân cư xen kẽ với người Kinh.  Tất cả các nhóm dân tộc đều có nền văn hóa riêng biệt và độc đáo. Tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc cũng khác biệt.

Tiếng Việt
là ngôn ngữ chính tiếng nói theo nhóm Việt-Mường Ngôn ngữ Việt gồm 8 nhóm tiếng nói: Việt-Mường; Tày-Thái; Dao-Hmông; Tạng-Miến; Hán; Môn-Khmer; Mã Lai-Đa đảo: hỗn hợp Nam Á, khác).

Nông nghiệp Việt Nam
là môi trường sống và nôi văn hóa Việt. Người Việt bản địa là chủ nhân của nền văn hóa thời đồ đá tại Việt Nam từ 7.000 -20.000 năm trước. Người Việt là chủ nhân của tiếng Việt và nền văn minh lúa nước, chốn tổ của nghề trồng lúa nước trên thế giới. Các dân tộc Việt khác với cộng đồng ít người hơn có nguồn gốc thiên di từ Tây Tạng, Hoa Nam,… di cư đến Việt Nam sau thời kỳ đồ đá muộn.

1.3. Nông nghiệp Việt Nam là sớm nhất, căn bản nhất, giá đỡ của kinh tế Việt
Quá trình hình thành dân tộc và nông nghiệp Việt Nam theo các tài liệu phổ biến trong thế kỷ XX thì có thể chia thành ba giai đoạn:
  1. Vào thời kỳ đồ đá giữa khoảng 20.000-10.000 năm trước, có một bộ phận thuộc Đại chủng Á, sống ở tiểu lục địa Ấn Độ di cư về phía đông, tới vùng ngày nay là Đông Dương thì dừng lại. Tại đây, bộ phận của Đại chủng Á kết hợp với bộ phận của Đại chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời của chủng Cổ Mã Lai.
  2. Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng khoảng 5.000 năm trước, chủng Cổ Mã Lai tiếp xúc thường xuyên với Đại chủng Á từ phía bắc tràn xuống,  hình thành chủng Nam Á
  3. Chủng Nam Á tại khu vực bắc Việt Nam và nam Trung Quốc (từ sông Dương Tử trở xuống) mà cổ thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt. Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như: Môn-Khmer, Việt-Mường, Tày-Thái, H’Mông-Dao,… Sau này quá trình chia tách này tiếp tục để hình thành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như ngày nay. Phía nam Việt Nam, dọc theo dải Trường Sơn, trong khi đó, vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ Mã Lai. Theo thời gian họ chuyển biến thành chủng Nam Đảo. Đó là tổ tiên của các dân tộc thuộc nhóm Chăm. Người Việt theo truyền thuyết dân tộc Kinh là con cháu của một thần rồng tên là Lạc Long Quân và một vị tiên tên là Âu Cơ. Hai người này lấy nhau và đẻ ra một bọc 100 trứng và nở ra 100 người con. Những người con sinh ra cùng một bọc gọi là “cùng bọc” (hay còn gọi là đồng bào) và “đồng bào” là cách gọi của người Việt để nói rằng tất cả người Việt Nam đều cùng có chung một nguồn gốc. Về nhân chủng học, có hai luồng quan điểm về nguồn gốc của người Việt. Một số học giả tin rằng người Việt đầu tiên dần dần chuyển từ quần đảo Indonesia thông qua bán đảo Mã Lai và Thái Lan cho đến khi họ định cư trên các cạnh của sông Hồng ở Đồng bằng Bắc Bộ bằng cách lần theo con đường của các công cụ đá từ cuối Thế Pleistocen (600,000-12,000 trước Công nguyên), trên Java, Malaysia, Thái Lan và phía bắc Miến Điện. Những công cụ bằng đá được cho là các công cụ con người đầu tiên được sử dụng trong khu vực Đông Nam Á. Các nhà khảo cổ tin rằng vào thời điểm này Hy Mã Lạp Sơn, một dãy núi ở miền bắc Miến Điện và Trung Quốc, tạo ra một rào cản băng giá cô lập người dân Đông Nam Á. Một số khác cho rằng người Việt đầu tiên vốn là một bộ tộc gốc Mông Cổ ở Tây Tạng, di cư xuống phía nam từ thời đồ đá cũ. Nhóm dân tộc này định cư tại vùng Bắc Bộ, thượng nguồn sông Hồng ngày nay và tạo nên nền văn minh Đông Sơn. Nhóm bộ tộc này cũng có sự tương đồng rất lớn về nhân chủng, văn hóa với các tộc người ở phía Nam Trung Quốc, mà sử Trung Quốc còn gọi là cộng đồng Bách Việt.
Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt (người Kinh) và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam, cùng với hơn bốn triệu người Việt hải ngoại. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Mặc dù tiếng Việt có một số từ vựng vay mượn từ tiếng Hán và trước đây dùng chữ Nôm, một hệ chữ dựa trên chữ Hán để viết nhưng tiếng Việt được coi là một trong số các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á có số người nói nhiều nhất (nhiều hơn một số lần so với các ngôn ngữ khác cùng hệ cộng lại) có nguồn gốc với ngôn ngữ Nam Á về mặt từ vựng kết hợp với ngôn ngữ Tày-Thái về mặt thanh điệu. Ngày nay, tiếng Việt dùng bảng chữ cái Latinh, gọi là chữ Quốc ngữ (do Alexandre de Rhodes sáng lập), cùng các dấu thanh để viết.  Tiếng Việt trong quá trình phát triển đã tiếp thu và đồng hoá nhiều từ Hán thành từ Hán-Việt, và tiếp thu một số lượng khá lớn các từ khoa học kỹ thuật của các ngôn ngữ Pháp, Nga, Anh từ đầu thế kỷ 20 đến nay.


Người
Việt, tiếng Việt và ngữ hệ Nam Á (Hoàng Tố Nguyên và ctv. 2018).

Ngữ hệ Nam Á là một tổng hợp bao gồm khoảng 168 ngôn ngữ tại miền nam của châu Á, tập trung tại Đông Nam Á và rải rác tại Ấn Độ cùng Bangladesh. Ngôn ngữ có nhiều người dùng nhất trong hệ thống này là tiếng Việt, với trên 80 triệu người, sau đó là tiếng Khmer, với khoảng 16 triệu người. Trong các ngôn ngữ của ngữ hệ Nam Á  thì  tiếng Việt, tiếng Khmer và tiếng Môn là có lịch sử được ghi chép lại lâu dài và tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam.

Nông nghiệp Việt Nam gắn liền với Lịch sử Việt Nam. Người Việt tiền sử sinh sống tại đất Việt thì đã có hàng vạn năm trước công nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì khoảng từ năm 2879 TCN đến nay (năm 2018) là 4897 năm (gần 5000 năm) Tại Việt Nam các nhà khảo cổ đã tìm thấy các di tích chứng minh loài người đã từng sống từ nền văn hóa Tràng An, Ngườm, Sơn Vi và Soi Nhụ thời kỳ Đồ đá cũ. Trong nền văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn thời kỳ Đồ đá mới; văn hóa Phùng Nguyên ở xã Kinh Kệ huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm; Văn hóa Đồng ĐậuVăn hóa Gò Mun ở thời đại đồ đồng, cách đây khoảng 3000 năm, di chỉ tại khu di tích Đồng Đậu ở thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, người tiền sử tại vùng này đã phát triển chăn nuôi, nông nghiệp, đặc biệt là kỹ thuật trồng lúa nước.Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Sa Huỳnh, và Văn hóa Óc Eo khoảng 1200 TCN, cách ngày nay 3218 năm, đã có sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồ đồng trong khu vực sông Mã và đồng bằng sông Hồng đã dẫn đến sự phát triển của nền văn hóa Đông Sơn, nổi bật với các trống đồng. Các vũ khí, dụng cụ và trống đồng được khai quật của văn hóa Đông Sơn minh chứng cho việc kỹ thuật đúc đồ đồng bắt nguồn từ đây, nhiều mỏ đồng nhỏ xưa đã được khai quật ở miền Bắc Việt Nam. Ở đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy quan tài và lọ chôn hình thuyền, nhà sàn, và bằng chứng về phong tục ăn trầu và nhuộm răng đen. Những người Việt tiền sử trên vùng đồng bằng sông Hồng đã trồng lúa, trồng trọt và đắp đê chống nước lụt đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hóa làng xã.

Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng người Việt đã xuất hiện nhà nước đầu tiên trên miền Bắc Việt Nam ngày nay vào thời kỳ đồ sắt, vào khoảng thế kỷ VII TCN với truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên mà người Việt Nam tự hào truyền miệng từ đời này qua đời khác.

Nông nghiệp Việt Nam là căn bản nhất, giá đỡ của kinh tế Việt, hiển nhiên đến mức mọi người dân Việt đều hiểu, không cần phải phân tích.

II. Bảy vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam
Nông nghiệp Việt Nam liên quan chặt chẽ với bảy vùng sinh thái nông nghiệp:
  1. Vùng núi và trung du phía Bắc, có tiểu vùng Tây Bắc gồm 4 tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình., với tiểu vùng Đông Bắc: gồm 11 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ.
  2. Vùng đồng bằng sông Hồng: gồm 11 tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Tây, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc.
  3. Vùng Bắc Trung bộ: gồm 6 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế.
  4. Vùng Nam Trung bộ: gồm 6 tỉnh Đà Nẵng,Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà.
  5. Vùng Tây Nguyên: gồm 5 tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum.
  6. Vùng Đông Nam bộ: gồm 8 tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà rịa – Vũng Tàu.
  7. Vùng Tây Nam bộ: gồm 13 tỉnh Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Trà Vinh.
  8. n Thơ, Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Trà Vinh.

III. Đặc điểm bảy vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam
  1. Vùng núi và trung du phía Bắc có đặc điểm sinh thái chính: Núi cao nguyên và đồi thấp, Đất feralit đỏ vàng, đất phù sa cổ bạc màu; Khí hậu cận nhiệt đới, ôn đới trên núi, có mùa đông lạnh. Điều kiện kinh tế xã hội: Mật độ dân số tương đối thấp. Dân có kinh nghiệm sản xuất lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp. Ở vùng trung du có các cơ sở công nghiệp chế biến. Điều kiện giao thông tương đối thuận lợi.Ở vùng núi còn nhiều khó khăn. Trình độ thâm canh thấp; sản xuất theo kiểu quảng canh, đầu tư ít lao động và vật tư nông nghiệp. Ở vùng trung du trình độ thâm canh đang được nâng cao. Chuyên môn hóa sản xuất: Cây công nghiệp có nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới (chè, trầu, sở, hồi..); Đậu tương, lạc, thuốc lá. Cây ăn quả, cây dược liệu; Trâu, bò lấy thịt và sữa, lợn (trung du).
  2. Vùng đồng bằng sông Hồng có đặc điểm chính về sinh thái nông nghiệp:Đồng bằng châu thổ có nhiều ô trũng; Đất phù sa sông Hồng và sông Thái Bình; Có mùa đông lạnh. Điều kiện kinh tế xã hội: Mật độ dân số cao nhất cả nước. Dân có kinh nghiệm thâm canh lúa nước. Mạng lưới đô thị dày đặc; các thành phố lớn tập trung công nghiệp chế biến. Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đang được đẩy mạnh. Trình độ thâm canh: Trình độ thâm canh khá cao, đầu tư nhiều lao động; Áp dụng các giống mới, cao sản, công nghệ tiến bộ. Chuyên môn hóa sản xuất: Lúa cao sản, lúc có chất lượng cao; Cây thực phẩm, đặc biệt là các loại rau cao cấp. Cây ăn quả; Đay, cói; Lợn, bò sửa (ven thành phố lớn), gia cầm, nuôi thủy sản nước ngọt (ở các ô trũng), thủy sản nước mặn, nước lợ.
  3. Vùng Bắc Trung bộ: Điều kiện sinh thái nông nghiệp: Đồng bằng hẹp, vùng đối trước núi Đất phù sa, đất feralit (có cả đất badan) Thường xảy ra thiên tai (bão, lụt), nạn cát bay, gió Lào; Điều kiện kinh tế – xã hội: Dân có kinh nghiệm trong đấu tranh chinh phục tự nhiên. Có một số đô thị vừa và nhỏ, chủ yếu ở dải ven biển. Có một số cơ sở công nghiệp chế biến. Trình độ thâm canh: Trình độ thâm canh tương đối thấp. Nông nghiệp sử dụng nhiều lao động. Chuyên môn hóa sản xuất: Cây công nghiệp hàng năm (lạc, mía, thuốc lá..) Cây công nghiệp lâu năm (cà phê, cao su) Trâu, bò lấy thịt; nuôi thủy sản nước mặn, nước lợ.
  4. Vùng Nam Trung bộ: Điều kiện sinh thái nông nghiệp: Đồng bằng hẹp, khá màu mỡ. Có nhiều vụng biển thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản. Dễ bị hạn hán về mùa khô; Điều kiện kinh tế xã hội: Có nhiều thành phố, thị xã dọc dài ven biển. Điều kiện giao thông vận tải thuận lợi. Trình độ thâm canh: Trình độ thâm canh khá cao. Sử dụng nhiều lao động và vật tư nông nghiệp. Chuyên môn hóa sản xuất: Cây công nghiệp hàng năm (mía, thuốc lá) Công công nghiệp lâu năm (dừa) Lúa Bò thịt, lợn Đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.
  5. Vùng Tây Nguyên: Điều kiện sinh thái nông nghiệp: Các cao nguyên ba dan rộng lớn, ở các độ cao khác nhau. Khí hậu phân ra hai mùa mưa, khô rõ rệt. Thiếu nước về mùa khô. Điều kiện kinh tế xã hội: Có nhiều dân tộc ít người, còn tiến hành nông nghiệp kiểu cổ truyền. Có các nông trường Công nghiệp chế biến còn yếu Điều kiện giao thông khá thuận lợi Trình độ thâm canh: Ở khu vực nông nghiệp cổ truyền, quảng canh là chính. Ở các nông trường, các nông hộ, trình độ thâm canh đang được nâng lên Chuyên môn hóa sản xuất: Cà phê, cao su, chè, dâu tằm, hồ tiêu Bò thịt và bò sữa
  6. Vùng Đông Nam bộ: Điều kiện sinh thái nông nghiệp: Các vùng đất ba dan và đất xám phù sa cổ rộng lớn, khá bằng phẳng Các vùng trũng có khả năng nuôi trồng thủy sản Thiếu nước về mùa khô Điều kiện kinh tế – xã hội: Có các thành phố lớn, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tập trung nhiều cơ sở công nghiệp chế biến Điều kiện giao thông vận tải thuận lợi Trình độ thâm canh cao. Sản xuất hàng hóa, sử dụng nhiều máy móc, vật tư nông nghiệp Chuyên môn hóa sản xuất: Các cây công nghiệp lâu năm (cao su, cà phê, điều) Cây công nghiệp ngắn ngày (đậu tương, mía) Nuôi trồng thủy sản- Bò sữa (ven các thành phố lớn), gia cầm
  7. Vùng Tây Nam bộ: Các điều kiện sinh thái nông nghiệp: Các dải phù sa ngọt, các vùng đất phèn, đất mặn Vịnh biển nông, ngư trường rộng Các vùng rừng ngập mặn có tiềm năng để nuôi trồng thủy sản.Có thị trường rộng lớn là vùng Đông Nam Bộ Điều kiện giao thông vận tải thuận lợi Có mạng lưới đô thị vừa và nhỏ, có các cơ sở công nghiệp chế biến. Trình độ thâm canh cao. Sản xuất hàng hóa, sử dụng nhiều máy móc, vật tư nông nghiệp Chuyên môn hóa sản xuất: Lúa, lúa có chất lượng cao Cây công nghiệp ngắn ngày (mía, đay, cói) Cây ăn quả nhiệt đời Thủy sản (đặc biệt là tôm) Gia cầm (đặc biệt là vịt đàn)
Bảy vùng sinh thái trên đây tương đồng với Việt Nam vùng lãnh thổ hành chính;  Vùng núi và trung du phía Bắc là kết hợp của hai tiểu vùng : Tiểu vùng Tây Bắc gồm 4 tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình., với tiểu vùng Đông Bắc: gồm 11 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ

IV. Hiện trạng, tầm nhìn lao động nông nghiệp Việt Nam

Lao động Nông nghiệp Việt Nam hiện có khoảng 22 triệu người chủ yếu tập trung ở nông thôn khoảng 69 %, khu vực thành thị khoảng 31 %. Việt Nam là nước nông nghiệp với nhiều lợi thế từ các sản phẩm nhiệt đới nhưng sự biến tiềm năng đó thành hiện thực, làm động lực cho phát triển nền nông nghiệp hàng hóa lớn và sản phẩm có thương hiệu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế.
Hệ thống ngành nghề nông lâm ngư nghiệp thủy sản Việt Nam đang đào tạo chính trong 9 nhóm ngành nghề nông lâm ngư nghiệp thủy sản gồm: 1. Ngành Trồng trọt: 2. Ngành chăn nuôi:  3. Ngành Nông học: 4. Ngành Bảo vệ thực vật; 5. Ngành lâm nghiệp   6. Ngành Nông lâm kết hợp 7. Ngành Nuôi trồng thủy sản: 8. Ngành Cảnh quan và Kĩ thuật hoa viên: 9. Ngành Quản lí đất đai;
Việc chuyển đổi tầm nhìn và đầu tư sâu vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp sinh thái là rất cần thiết. Ngành Nông Lâm Ngư nghiệp nằm trong các nhóm ngành có thu nhập không cao, nhưng mỗi năm Việt Nam cả nước cần cung cấp ổn đinh trên 1 triệu lao động cho các nhóm ngành chính: Nông nghiệp 58.000 – 60.000 người/năm, Lâm nghiệp 8.000 – 10.000 người/năm, thủy lợi 7.000 – 9.000 người/năm; thủy sản 8.000 – 8.500 người/năm.

V. Nông nghiệp Việt Nam và Du lịch sinh thái.

Việt Nam có ba vùng du lịch sinh thái trọng điểm: Vùng du lịch Bắc bộ, Vùng du lịch Trung bộ, Vùng du lịch Nam bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung. Vùng du lịch Bắc bộ lấy Hà Nội làm trung tâm với trục động lực là Hà Nội – Hải Phòng – Hạ Long. Vùng du lịch Trung bộ lấy  Huế và Đà Nẵng làm trung tâm  và trục động lực là Quảng Bình – Quảng Trị – Huế – Đà Nẵng – Quảng Nam – Quảng Ngãi . Vùng du lịch Nam bộ Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung lấy trung tâm là thành phố Hồ Chí Minh, với các trục động lực là thành phố Hồ Chí Minh – Cần Thơ – Hà Tiên – Phú Quốc với TP. Hồ Chí Minh – Vũng Tàu – Phan Thiết – Nha Trang và TP. Hồ Chí Minh – Đà Lạt –  Nha Trang- Buôn Me Thuột – Kon Tum.

VI Nông nghiệp Việt Nam ngày nay

6.1 Nông nghiệp Việt Nam ngày nay là lĩnh vực đặc biệt quan trọng
, tạo sự ổn định xã hội và nâng cao chất lượng sống cho người nông dân, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Hiện nay, Việt Nam là nước có nhiều lợi thế, tiềm năng phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp và trở thành một nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới.

Hàng nông sản chủ lực Việt Nam gồm  gạo, chè, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, rau quả, thyủy sản (như cá tra, cá ba sa, cá ngừ, tôm, mực…)  là những mặt hàng có lợi thế, nhiều tiềm năng xuất khẩu sang thị trường các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Singapore, Tiểu các vương quốc Ả rập thống nhất (UAE), thị trường châu Âu và châu Mỹ

Năm 2017, thủy sản Việt Nam là ngành có giá trị xuất khẩu cao nhất, đạt 8,3 tỷ USD, tiếp đến là hạt điều với 3,516 tỷ USD, rau quả đạt 3,502 tỷ USD, cà phê với 3,24 tỷ USD, gạo đạt 2,6 tỷ USD, hạt tiêu đạt 1,1 tỷ USD, sắn và các sản phẩm từ sắn đạt 1,03 tỷ USD


6.2. Doanh nghiệp nông nghiệp tỷ lệ rất thấp 8% chủ yếu nhỏ và siêu nhỏ  92,35%

Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến quý II/ 2018,  các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam ước tính cả nước có khoảng hơn 49.600 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, chiếm khoảng 8% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước, chủ yếu ở quy mô nhỏ và siêu nhỏ, chiếm 92,35%, tiếp đến là doanh nghiệp có quy mô lớn với 5,59% và doanh nghiệp có quy mô vừa với 2,06%. Đầu tư vào nông nghiệp đã tạo ra hơn 4,5 triệu việc làm, chiếm 32,5% lao động của toàn bộ doanh nghiệp.

Đặc thù của các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp có đặc thù là phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên như thiên tai, rủi ro dịch bệnh dẫn đến đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp chịu rất nhiều rủi ro so với các ngành kinh tế khác. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn phản ánh gặp khó khăn ở một số vấn đề chính như: quỹ đất nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất của doanh nghiệp; ngành công nghiệp cơ khí hỗ trợ cho nông nghiệp ở Việt Nam còn hạn chế. Nhiều thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh trong nông nghiệp còn bất hợp lý. Hiệu quả của hầu hết các loại hình tổ chức sản xuất, các ngành, các lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản nhìn chung chưa cao. Ứng dụng khoa học và công nghệ, liên kết chuỗi giá trị sản xuất trong nông nghiệp còn rất hạn chế, mới chỉ ở bước đầu phát triển…

6.3. Tầm nhìn đột phá đầu tư, cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn

Nghị định số 57/2018/NĐ-CP về cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn của Chính phủ Việt Nam  thể chế hóa tầm nhìn chuyển đổi tái cơ cấu nông nghiệp sau 30 năm đổi mới , cụ thể hóa Nghị định 61/2010/NĐ-CP chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định 210/2013/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn
Những chủ trương lớn mới đây trong tầm nhìn của chính phủ Việt Nam theo Cổng thông tin Chính phủ VCP News
“Trục sản phẩm chủ lực
Trên cơ sở những kết quả đã đạt được, Bộ NNPTNT đề xuất một số định hướng giải pháp ưu tiên thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn thời gian tới như sau:
Thứ nhất, thực hiện đồng bộ các giải pháp đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng nông thôn mới. trong đó, Bộ Nông nghiệp và PTNT xác định các ưu tiên phát triển ngành theo ba trục sản phẩm chính, bao gồm:
Các sản phẩm chủ lực quốc gia (các sản phẩm có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD/ năm: lúa gạo, cao su, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, sắn, rau quả, tôm, cá tra, gỗ và sản phẩm từ gỗ; các ngành hàng có quy mô thị trường nội địa lớn như thịt lợn, thịt gia cầm).
Ưu tiên thu hút đầu tư của doanh nghiệp quy mô lớn, đóng vai trò hạt nhân, dẫn dắt, phát triển chuỗi giá trị đồng bộ. Tập trung thu hút đầu tư vào các cụm liên kết ngành cấp vùng, gắn với các vùng chuyên canh lớn của các doanh nghiệp, kết nối giữa khu hạt nhân của cụm (gồm trung tâm nghiên cứu khoa học công nghiệp, tài chính, thương mại, logistic) và các vệ tinh gồm các khu/cụm công nghiệp dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp cấp tỉnh.
Các vùng ưu tiên thu hút đầu tư cho các sản phẩm chiến lược này là: lúa gạo ở vùng đồng bằng sông Hồng, vùng đồng bằng sông Cửu Long; cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều ở vùng Tây Nguyên và vùng Đông Nam Bộ; chè ở vùng Trung du, miền núi phía Bắc và Tây Nguyên; cây ăn quả ở Trung du miền núi Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng, duyên hải miền trung, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long); cá da trơn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, tôm và hải sản ở vùng Duyên hải Trung Bộ, vùng Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng Sông Cửu Long; gỗ ở miền núi phía Bắc, vùng Duyên hải Trung Bộ và Tây Nguyên.
Chuỗi giá trị các sản phẩm chủ lực cấp tỉnh (như các sản phẩm đủ lớn có tổng giá trị xuất khẩu từ 500 triệu USD/năm). Ưu tiên thu hút doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sản phẩm có lợi thế của địa phương, tập trung thu hút vào các cụm liên kết ngành cấp tỉnh, gắn với vùng nguyên liệu của doanh nghiệp, kết nối giữa khu hạt nhân của cụm (khu/vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại các tỉnh) và các khu/cụm công nghiệp – dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp cấp tỉnh.
Chuỗi giá trị đặc sản địa phương (chuỗi giá trị sản phẩm đặc thù vùng miền) có quy mô nhỏ, gắn với chỉ dẫn địa lý cụ thể, được xây dựng và phát triển cùng với xây dựng nông thôn mới theo mô hình “Mỗi xã một sản phẩm”. Ưu tiên thu hút đầu tư của doanh nghiệp quy mô cực nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp, các hợp tác xã, hộ sản xuất kinh doanh đối với các mặt hàng đặc sản của địa phương theo mô hình “Mỗi xã một sản phẩm” (one commune one product – OCOP), gắn với các tiểu vùng có sản phẩm đặc sản vùng miền.
Vùng sản xuất tập trung
Thứ hai, ưu tiên các doanh nghiệp đầu tư, nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng vào các nhóm lĩnh vực, ngành nghề sau:
Đầu tư, phát triển vùng sản xuất tập trung trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản.
Sản xuất, phát triển giống cây trồng, vật nuôi, giống cây lâm nghiệp, giống thủy sản. Sản xuất đầu vào như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi và thủy sản, chế phẩm sinh học, thuốc thú y chăn nuôi và thủy sản.
Ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa và các công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy lợi, thủy sản.
Đầu tư vào lĩnh vực chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản, dược liệu, tinh chế muối; sản xuất máy, thiết bị, chất phụ gia, phụ trợ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, máy chế biến thực phẩm; công nghệ giết mổ, bảo quản chế biến gia súc, gia cầm, tập trung, công nghiệp; sản xuất hàng thủ công; sản phẩm văn hóa, dân tộc truyền thống.
Thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, nước thải sinh hoạt tại nông thôn; thu gom xử lý chất thải làng nghề; đầu tư hệ thống cấp nước sạch, thoát nước, công trình thủy lợi và hệ thống tưới tiên tiến, tiết kiệm nước.
Doanh nghiệp dẫn dắt các chuỗi giá trị
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, đẩy mạnh cải cách hành chính để thu hút mạnh mẽ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Trong thời gian tới, doanh nghiệp nông nghiệp được coi là lực lượng dẫn dắt các chuỗi giá trị nông nghiệp và tạo hiệu ứng lan tỏa cho phát triển kinh tế – xã hội.
Để có thể thu hút và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm các điều kiện đầu tư kinh doanh không cần thiết, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh trong nông nghiệp, thực hiện tốt các cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp theo các Nghị định: số 52/2018/NĐ-CP, số 57/2018/NĐ-CP, số 58/2018/NĐ-CP, số 98/2018/NĐ-CP.
Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận có thời hạn lâu dài với đất đai, phù hợp vớicác quyền sử dụng hợp pháp của nhà đầu tư; tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư thực hiện các dự án; xây dựng cơ chế khuyến khích mạnh mẽ hơn các nhà đầu tham gia xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn theo nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP).
Thực hiện Nghị định 58/2018/NĐ-CP về bảo hiểm nông nghiệp cũng sẽ khuyến khích doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện và tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân sản xuất trong ngành nông lâm thủy sản chủ động khắc phục và bù đắp thiệt hại về tài chính do các rủi ro xảy ra trong quá trình sản xuất. Các cá nhân, doanh nghiệp tổ chức sản xuất nông nghiệp theo mô hình sản xuất hợp tác, liên kết, tập trung, quy mô lớn có ứng dụng khoa học công nghệ và các quy trình sản xuất tiên tiến vào sản xuất, hướng tới nền nông nghiệp sạch, công nghệ cao, thân thiện với môi trường được hỗ trợ 20% phí bảo hiểm nông nghiệp.
Bên cạnh đó, Chính phủ tiếp tục hoàn thiện các chính sách nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật nông nghiệp, giúp giảm chi phí đào tạo ban đầu cho các nhà đầu tư, đặc biệt cho các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư./.”
Nguồn: Du lịch sinh thái Nông nghiệp Việt Nam, Việt Nam con đường xanh bài giảng TS. Hoàng Tố Nguyên, TS. Hoàng Long, TS. Hoàng Kim 2018 Học tiếng Trung Việt.

Vietnamese food paradise
KimYouTube

Trở về trang chính

Hoàng Kim  Ngọc Phương Nam  Thung dung  Dạy và học  Cây Lương thực  Dạy và Học  Tình yêu cuộc sống  Kim on LinkedIn  Kim on Facebook  KimTwitter  hoangkim vietnam 

Thursday, November 13, 2014

Biển Đông Việt Nam và Sông Mekong


VIỆT NAM TỔ QUỐC TÔI. Biển Đông Việt Nam và sông Mekong là những điểm chính trong quan hệ quốc tế của Việt Nam khi mở cửa nhìn ra thế giới. Tình hình biển Đông có gì mới Sông Mekong thông tin tổng hợp 2014b là góc tư liệu của bạn. Kỳ này chúng ta tiếp cận
Tư liệu bản đồ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa – Phần 1 (FB Trần Đức Anh Sơn); Tư liệu bản đồ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa – Phần 2  (FB Trần Đức Anh Sơn). Các bản đồ cổ Việt Nam nhất quán khẳng định Hoàng Sa - Trường Sa thuộc về Việt Nam. Bản đồ cổ Trung Quốc cũng nhất quán ghi nhận hai quần đảo này không liên quan gì đến cương giới, lãnh thổ Trung Quốc. Điều này, một lần nữa được xác nhận bởi hàng trăm bản đồ Trung Quốc do các nước phương Tây xuất bản từ đầu thế kỷ XVI đến thập niên 80 của thế kỷ XX.






















TƯ LIỆU BẢN ĐỒ CHỨNG MINH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
ĐỐI VỚI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA


Trần Đức Anh Sơn

Bài viết sau đây của tôi là bài tổng hợp những bài viết trước đó về bản đồ cổ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa trong những năm qua, có bổ sung thêm tư liệu mới. Bài này đã in 2 kỳ trên tạp chí PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ĐÀ NẴNG (Số 57 và 58 - Tháng 9 và tháng 10/2014). Tạp chí in có hạn, nhưng có nhiều người gửi mail xin quá. Vậy nên tôi đề nghị ai cần thì vào địa chỉ: www.dised.danang.gov.vn để tải bản pdf về đọc nhé. Nếu ai làm biếng tải về từ địa chỉ trên thì có thể đọc ở đây.
(Kỳ 1)

Bản đồ cổ là một trong những nguồn tư liệu quan trọng chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Chúng tôi đã tiếp cận và thu thập hàng trăm bản đồ liên quan đến chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bao gồm: bản đồ do nhóm nghiên cứu đề tài Fond tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với huyện đảo Hoàng Sa - Thành phố Đà Nẵng sưu tầm; bản đồ do kỹ sư Trần Thắng (Việt kiều ở bang Connecticut, Hoa Kỳ) sưu tầm và hiến tặng; bản đồ do tôi sao chụp từ các văn khố, thư viện ở Hoa Kỳ, Nhật Bản và châu Âu trong thời gian tham gia đoàn làm phim Biển đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời trong năm 2013.

Ngoài ra, chúng tôi cũng tiếp nhận thông tin và hình ảnh các bản đồ được công bố trong các biên khảo, bài nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước liên quan đến vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Từ đó chúng tôi đã tập hợp thành một fond tư liệu bản đồ nhằm chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Fond tư liệu bản đồ này gồm bốn thư mục:

- Các bản đồ biên soạn và xuất bản ở Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa;
- Các bản đồ biên soạn và xuất bản ở phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa;
- Các bản đồ biên soạn và xuất bản ở Trung Quốc từ đầu Công nguyên đến đầu thế kỷ XX chứng minh quần đảo Hoàng Sa không thuộc về Trung Quốc;
- Các bản đồ biên soạn và xuất bản ở phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX chứng minh quần đảo Hoàng Sa không thuộc về Trung Quốc.

I. BẢN ĐỒ CỔ VIỆT NAM CHỨNG MINH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA

Ngoài các thư tịch cổ do các nhà nước phong kiến Việt Nam và các bậc thức giả đương thời biên soạn, xác nhận quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa (và quần đảo Trường Sa), còn có nhiều bản đồ, địa đồ, dư đồ... được soạn vẽ trong các thế kỷ XVI - XIX xác nhận Hoàng Sa nằm trong cương vực nước ta. Đó là những bản đồ hành chính quốc gia, bản đồ các tỉnh thành do nhà nước tổ chức soạn vẽ, cùng những địa đồ, dư đồ... trong các tác phẩm sử học, địa dư, địa phương chí... do các học giả đương thời biên soạn.

Trên những bản đồ, địa đồ, dư đồ... này, quần đảo Hoàng Sa được vẽ hoặc ghi tên bằng chữ Nôm như: 罢葛鐄, 𡓁葛鐄, 罷葛鐄, 罷吉鐄, 罷吉黄, 罷割鐄 (đều đọc là Bãi Cát Vàng), 罢沙鐄 (Bãi Sa Vàng), 葛鐄處 (Cát Vàng xứ), 𡑱鐄 (Cồn Vàng)…; hoặc bằng chữ Hán như: 黃沙 (Hoàng Sa), 黃沙洲 (Hoàng Sa châu), 黃沙渚 (Hoàng Sa chử), 黃沙處 (Hoàng Sa xứ), 大長沙 (Đại Trường Sa), 萬里黃沙 (Vạn Lý Hoàng Sa), 萬里長沙 (Vạn Lý Trường Sa)…, nằm ở ngoài khơi vùng biển miền Trung Việt Nam ngày nay.

Những bản đồ cổ Việt Nam vẽ vào các thế kỷ XVII - XVIII chủ yếu là bản đồ khổ ngang theo lối vẽ bản đồ truyền thống của Trung Hoa, có cách thể hiện phương vị là: phương tây ở phía trên, phương đông ở phía dưới, phương bắc ở bên phải và phương nam ở bên trái. Trên những bản đồ khổ ngang này, hình vẽ hoặc địa danh Hoàng Sa thường được thể hiện ở phía dưới bản đồ. Phía trên bản đồ thường có phần chú dẫn bằng chữ Hán miêu tả hình thế núi sông, diễn giải vị thế, diên cách các địa phương và địa danh được đề cập trên bản đồ. Tiêu biểu cho những bản đồ khổ ngang này là tờ bản đồ vẽ xứ Quảng Nam trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá (tự là Công Đạo) vẽ vào năm 1686.

Sang thế kỷ XIX, lối vẽ bản đồ khổ ngang truyền thống vẫn được tiếp tục. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XVIII có nhiều kỹ sư, công binh, chuyên gia quân sự người Pháp tham gia vào lực lượng của Nguyễn Ánh trong cuộc chiến tranh Nguyễn - Tây Sơn. Có lẽ họ là những người đã du nhập kỹ thuật vẽ bản đồ khổ dọc với các phương pháp đo đạc và định vị hiện đại hơn của phương Tây vào Việt Nam. Sau khi triều Nguyễn thành lập (1802), những chuyên gia người Pháp này vẫn còn phục vụ cho các vua Gia Long (1802 - 1820), Minh Mạng (1820 - 1841)… Vì thế, kỹ thuật vẽ bản đồ đã có những thay đổi căn bản vào thời Nguyễn, mà kết quả là sự ra đời của tấm bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ vào năm 1838 đời Minh Mạng. Đây là bản đồ hành chính đầu tiên của nước ta được vẽ theo khổ dọc, với phương bắc ở trên, phương nam ở dưới, phương đông ở bên phải và phương tây ở bên trái. Trên bản đồ này, hình vẽ Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa xuất hiện ở bên phải bản đồ, tương tự như trên các bản đồ Việt Nam sau này.

Bản đồ đầu tiên của Việt Nam có đề cập Hoàng Sa được ghi nhận cho đến thời điểm này, là tờ bản đồ xứ Quảng Nam trong Toản tập An Nam lộ do Đỗ Bá biên soạn vào đời Chính Hòa (1680 - 1705). Đây là bản đồ khổ ngang truyền thống. Bản đồ có ghi ba chữ Nôm Bãi Cát Cá Vàng ở phía dưới, nằm trong vùng biển ngoài khơi phủ Quảng Ngãi thuộc xứ Quảng Nam lúc bấy giờ.

Năm 1686, Đỗ Bá biên soạn Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư [1] theo lệnh của chúa Trịnh, trên cơ sở hiệu chỉnh và chú dẫn những địa đồ, bản đồ nước ta được soạn vẽ từ thế kỷ XV và những bản đồ trong Toản tập An Nam lộ của ông. Trong toản tập này có tờ bản đồ vẽ hình thế huyện Bình Sơn (phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam) và vùng biển phía đông huyện này. Đây cũng là tờ bản đồ khổ ngang, phía trên có phần chú dẫn bằng chữ Hán viết về Bãi Cát Vàng, là hòn đảo nằm ở phía đông huyện này. Chú dẫn miêu tả khoảng cách từ đất liền đi đến Bãi Cát Vàng và hoạt động của đội Hoàng Sa thời chúa Nguyễn trị vì Đàng Trong:

“...Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển, từ cửa biển Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh. Mỗi lần có gió tây nam thì thuyền buôn các nước đi ở phía trong trôi giạt ra đây; gió đông bắc thì thuyền buôn chạy phía ngoài cũng trôi giạt vào đây, đều bị chết đói hết cả. Hàng hóa đều vứt bỏ nơi đây. Họ Nguyễn [2] mỗi năm vào tháng cuối đông, họ Nguyễn đưa 18 chiếc thuyền đến đây thu nhặt hàng hóa, của cải, phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn. Từ cửa Đại Chiêm vượt biển đến đây [mất] một ngày rưỡi, từ cửa Sa Kỳ đến đây [mất] nửa ngày...” (Bản đồ 1). Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá đã được sao chép lại vào thế kỷ XIX, riêng các bản đồ thì được tô thêm màu sắc. Tờ bản đồ có miêu tả về Bãi Cát Vàng cũng được tô màu, nhưng hình vẽ và chú dẫn về Bãi Cát Vàng vẫn không thay đổi (Bản đồ 2).

Ngoài Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, còn có một số tập bản đồ được soạn vẽ trong thế kỷ XVIII, trong đó có các tờ bản đồ vẽ xứ Quảng Nam hoặc phủ Quảng Ngãi, có miêu tả, ghi danh hoặc chú dẫn về Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) là đảo thuộc về nước ta thuở ấy. Đó là các bản đồ trong: Thiên Nam lộ đồ do Nhữ Ngọc Hoàn biên soạn vào năm 1771; Giáp Ngọ niên bình Nam đồ do Đoan Quận công Bùi Thế Ðạt biên soạn trong các năm 1774 - 1775; Thiên hạ bản đồ (khuyết danh) biên soạn vào thời Lê, sao lục vào thời Nguyễn (Bản đồ 3); An Nam hình thắng đồ phụ Nam Bắc xứ đồ (khuyết danh) biên soạn vào cuối thế kỷ XVIII... Các bản đồ này đều là bản đồ khổ ngang, phần dưới vẽ bản đồ, phần trên ghi chú dẫn, miêu tả về Bãi Cát Vàng, nội dung tương tự như chú dẫn trên tờ bản đồ vẽ huyện Bình Sơn trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá.

Sang thế kỷ XIX, các tờ bản đồ khổ ngang có miêu tả hoặc ghi các địa danh: Bãi Cát Vàng, Cát Vàng xứ, Hoàng Sa... tiếp tục được soạn vẽ hoặc sao chép từ thư tịch cổ thời Lê. Đáng chú ý là những bản đồ trong các tác phẩm sau:

- Thiên tải nhàn đàm do Đàm Thận Hữu biên soạn vào năm Gia Long thứ 9 (1810) có ba tờ bản đồ đều có tên là Quảng Nam tam phủ cửu huyện: bản đồ thứ nhất có vẽ hòn đảo ở ngoài khơi phủ Quảng Ngãi và chú thích 沙金堆俗号罢吉鐄 (Sa Kim đồi tục hiệu Bãi Cát Vàng: Cồn cát vàng, tục gọi là Bãi Cát Vàng) (Bản đồ 4 - Bản đồ này không load được ở đây); bản đồ thứ hai cũng vẽ hòn đảo ở ngoài khơi phủ Quảng Ngãi, ghi tên Nôm là 葛鐄處 (Cát Vàng xứ) (Bản đồ 5); bản đồ thứ ba cũng vẽ hòn đảo ở ngoài khơi phủ Quảng Ngãi, ghi tên Nôm là 罢葛鐄 (Bãi Cát Vàng) (Bản đồ 6).

- Nam Việt bản đồ (khuyết danh) biên soạn vào thế kỷ XIX, có tờ bản đồ vẽ hình thế hai phủ Thăng Hoa và Quảng Ngãi và vùng biển ngoài khơi hai phủ này. Phía trên tờ bản đồ này có chú dẫn bằng chữ Hán miêu tả khoảng cách từ đất liền đến hòn đảo nằm ở ngoài khơi phủ Quảng Ngãi, tên Nôm là 罢葛鐄 (Bãi Cát Vàng) và các đặc điểm địa lý, sản vật của đảo này (Bản đồ 7).

- An Nam dư địa chí biên soạn vào thế kỷ XIX, có tờ bản đồ vẽ hình thế nước ta từ Bắc vào Nam. Trên bản đồ này có vẽ hòn đảo tên là 黃沙渚 (Hoàng Sa chử: bãi Hoàng Sa) ở ngoài khơi phủ Thừa Thiên (Bản đồ 8).

Ngoài ra còn có một số bản đồ khổ ngang khác, đều có tên là Bản quốc địa đồ vẽ hình thế nước ta từ Bắc chí Nam, xuất hiện trong nhiều tác phẩm biên soạn vào thế kỷ XIX như:
- Khải đồng thuyết ước do Phạm Vọng biên soạn vào năm 1853, tiến sĩ Ngô Thế Vinh nhuận sắc, khắc in vào năm 1881 dưới triều Tự Đức (1848 - 1883) dùng làm sách giáo khoa bậc tiểu học. Trong sách này có in hình Bản quốc địa đồ, trên đó có vẽ hòn đảo tên là 黃沙渚 (Hoàng Sa chử: bãi Hoàng Sa) nằm ở ngoài khơi vùng biển miền Trung (Bản đồ 9). 


Việc đưa bản đồ có ghi địa danh Hoàng Sa vào sách giáo khoa tiểu học cho thấy triều Nguyễn rất coi trọng chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và giáo dục ý thức chủ quyền đó đối với thế hệ trẻ đương thời.

- Nam Việt địa dư trích lục là tập biên khảo về địa lý các tỉnh nước ta thời Nguyễn. Trong biên khảo này cũng có tờ bản đồ tên là Bản quốc địa đồ, trên đó có vẽ hòn đảo tên là 黃沙渚 (Hoàng Sa chử: bãi Hoàng Sa) nằm ở ngoài khơi vùng biển miền Trung (Bản đồ 10).

- Nam Việt địa đồ quốc hiệu sơn thủy bảo hóa cựu lục là tập biên khảo và địa đồ, khảo quốc hiệu nước ta qua các đời, niên hiệu của triều vua và núi sông tiêu biểu của cả nước. Tập biên khảo này cũng có tờ bản đồ tên là Bản quốc địa đồ, trên đó có vẽ hòn đảo tên là 黃沙渚 (Hoàng Sa chử: bãi Hoàng Sa) nằm ở ngoài khơi vùng biển miền Trung (Bản đồ 11).

Thành tựu lớn nhất trong việc soạn vẽ bản đồ thời Nguyễn là sự ra đời tấm bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ vào năm 1838 (Bản đồ 12 và Bản đồ 13). Những ghi chép trong các bộ chính sử thời Nguyễn như: Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Minh Mạng chính yếu… đều cho biết các vua Gia Long và Minh Mạng đã ra lệnh cho bộ Công hàng năm phái người ra khảo sát các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa ở ngoài Biển Đông, xác định vị trí các đảo, ghi lên bản đồ đem về dâng trình cho nhà vua. Những chuyến đi này đã cung cấp các dữ liệu quan trọng về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để Vệ Giám thành tập hợp đưa vào bản đồ hành chính chính thức, ghi nhận hai quần đảo này là những thực thể địa lý thuộc chủ quyền của nước ta đương thời.

Ngoài ra, trong phần dẫn của bài thơ Vọng kiến Vạn Lý Trường Sa [3] do tiến sĩ Lý Văn Phức (1785 - 1849), Hữu tham tri bộ Lễ và Quyền Thủy sư kinh kỳ thời Nguyễn cảm tác, có chép việc các vua đầu triều Nguyễn đã thuê những thủy thủ dày dạn kinh nghiệm và các phương tiện kỹ thuật hiện đại của phương Tây, trực tiếp dẫn dắt binh thuyền của triều đình đi ra Biển Đông khảo sát, đo đạc, vẽ bản đồ. Kết quả của những chuyến khảo sát biển đảo thường xuyên và liên tục này là sự ra đời của Đại Nam nhất thống toàn đồ. Đây là tấm bản đồ khổ dọc đầu tiên của nước ta, và là bản đồ cập nhật nhiều thông tin mới có độ chính xác khá cao về biển đảo Việt Nam đương thời. Trên bản đồ này hình thế nước ta được thể hiện gần giống với hình thế Việt Nam trên các bản đồ do các nước phương Tây xuất bản trong các thế kỷ XVII - XIX, với đường bờ biển phía đông cong hình chữ S và hình vẽ hai quần đảo 黃沙 (Hoàng Sa) và 萬里長沙 (Vạn Lý Trường Sa) trong vùng biển nước ta. Đây là bản đồ hành chính đầu tiên của triều Nguyễn có sự phân biệt giữa quần đảo Hoàng Sa với quần đảo Trường Sa, dù bên ngoài hai quần đảo này vẫn còn một đường vẽ đứt đoạn bao quanh cả hai quần đảo trong một thực thể chưa được tách biệt rõ ràng. Ngoài ra, vua Minh Mạng còn cho biên soạn và ấn hành tập Địa đồ vẽ bản đồ các tỉnh của nước Đại Nam dưới triều Minh Mạng, trong đó, có tờ bản đồ vẽ hai dải đảo được định danh là Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa.

Vua Thiệu Trị (1841 - 1847) tiếp tục sự nghiệp soạn vẽ bản đồ của tiền triều bằng việc hoàn thiện và xuất bản bộ Đại Nam toàn đồ. Đây là tập bản đồ nước ta vẽ bằng nhiều màu, gồm một bản đồ toàn quốc và bản đồ các tỉnh trong nước. Đại Nam toàn đồ cũng là bản đồ khổ dọc, kế tục thành tựu vẽ bản đồ theo kỹ thuật phương Tây, trên đó có ghi tên 72 cửa biển từ Bắc vào Nam và các đảo ngoài khơi của Việt Nam, bao gồm cả 黃沙 (Hoàng Sa) ở ngoài khơi vùng biển miền Trung (Bản đồ 14).

Dưới triều Tự Đức (1848 - 1883), triều đình ấn hành tập bản đồ Nam Bắc kỳ hội đồ trên cơ sở chỉnh lý Đại Nam nhất thống toàn đồ đời Minh Mạng và cập nhật, bổ sung nhiều địa danh của nước ta, cả trong đất liền lẫn ngoài hải đảo, trong đó có Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa.
Nhìn chung, các bản đồ thời Nguyễn đã đánh dấu một bước tiến mới trong kỹ thuật vẽ bản đồ, chuyển từ kiểu vẽ bản đồ khổ ngang truyền thống sang kiểu vẽ bản đồ khổ dọc với kỹ thuật đo vẽ hiện đại hơn, hình thế quốc gia trên các bản đồ này cũng gần sát với thực tế hơn.

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là dù được vẽ theo cách truyền thống hay hiện đại, thì các bản đồ Việt Nam có niên đại vào các thế kỷ XVII - XIX luôn có hình vẽ hoặc có tên quần đảo Hoàng Sa bằng chữ Nôm hoặc chữ Hán, cho dù đó là những bản đồ do nhà nước ấn hành, hay là những địa đồ, dư đồ… đính kèm trong các biên khảo của các học giả. Điều này chứng tỏ quần đảo Hoàng Sa (và quần đảo Trường Sa) là phần lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam trong hàng trăm năm qua và các nhà nước phong kiến cũng như các học giả, trí thức Việt Nam trong các thế kỷ XVII - XIX chưa bao giờ sao nhãng ý thức chủ quyền quốc gia đối với hai quần đảo này.

II. BẢN ĐỒ CỔ PHƯƠNG TÂY CHỨNG MINH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA

Trong các thế kỷ XVI - XX, các nhà hàng hải, nhà phát kiến địa lý, nhà bản đồ học... ở phương Tây đã biên soạn và xuất bản nhiều bản đồ về châu Á và khu vực Đông Nam Á, trong đó có nhiều bản đồ ghi nhận chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa (và quần đảo Trường Sa).

Từ thế kỷ XVI, các nhà hàng hàng hải Bồ Đào Nha trong hành trình khám phá thế giới và tìm kiếm thị trường từ đã đi qua Biển Đông để đi tới các nước Đông Bắc Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Cao Ly…. Họ đã ghi chép và vẽ bản đồ các đảo và quần đảo trong vùng biển này và đặt tên cho chuỗi đảo nằm ở ngoài khơi vương quốc Đàng Trong là Pracel (hay Parcel) và gọi nhóm đảo lớn nhất nằm ở cực bắc Pracel là I. des baixos Cachina [4] hay I. da Pracell.[5] Họ cũng gọi vùng bờ biển ở phía tây, đối diện với Pracel là Costa da Pracel (Bờ biển Hoàng Sa). Quần đảo mà người Bồ Đào Nha gọi là Pracel chính là nhóm đảo mà người Việt đương thời gọi là Bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa, còn Costa da Pracel là vùng duyên hải miền Trung Việt Nam, trải dài từ cửa biển Đại Chiêm ở Hội An (Quảng Nam) đến cửa biển Sa Kỳ (Quảng Ngãi).

Như vậy là từ thế kỷ XVI, các nhà hàng hải người Bồ Đào Nha đã ghi nhận mối quan hệ mật thiết giữa quần đảo Pracel (hay Parcel) với vương quốc Đàng Trong nằm ở bờ biển phía tây quần đảo này. Nói cách khác là họ thừa nhận các quần đảo ấy thuộc về vương quốc Đàng Trong. Sự thừa nhận ấy càng rõ ràng hơn trên hàng loạt bản đồ được công bố ở châu Âu và Bắc Mỹ trong các thế kỷ XVII - XX, khi nhận thức về Biển Đông và các đảo trong vùng biển này của người phương Tây ngày càng phong phú và sát thực. Rất nhiều bản đồ do các nước phương Tây xuất bản trong các thế kỷ này đều gọi chuỗi đảo nằm giữa Biển Đông, tương ứng với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam ngày nay, là Parcels / Paracels / Paracel Islands và vùng bờ biển Trung Trung Bộ của Việt Nam là Costa da Pracel / Coste de Parcels. “Đó là cách mặc nhiên thế giới công nhận Hoàng Sa và Trường Sa đích thực thuộc chủ quyền của Việt Nam ít nhất từ 5 thế kỷ nay”.[6]

Những bản đồ sớm nhất xuất bản ở phương Tây có miêu tả Hoàng Sa có lẽ là hai bản đồ do người Bồ Đào Nha vẽ vào năm 1560: một bản đồ do Bartholomen Velho vẽ và bản đồ còn lại do João de Lisboa vẽ.[7] Trên hai bản đồ này đều có hình vẽ một chuỗi đảo dài và cong như một lưỡi dao đối diện với bờ biển miền Trung Việt Nam ngày nay. Cực bắc chuỗi đảo này vẽ một nhóm đảo tương ứng với vị trí của quần đảo Hoàng Sa và ghi tên là I. bas do Pracell (Bãi ngầm Hoàng Sa). Cực nam là hòn đảo có tên là Pulo Ceciss, chính là Cù Lao Thu (đảo Phú Quý).

Tiếp đến là tờ bản đồ Cabo Comorim, Japao, Moluco e Note in Atlas [8] (Bản đồ 15) nằm trong bộ bản đồ thế giới gồm 8 bức do Fernão Vaz Dourado, người Bồ Đào Nha, vẽ năm 1571. Trên bản đồ này cũng vẽ một chuỗi đảo nằm ở ngoài khơi vùng biển Đàng Trong, hình tựa lưỡi dao thẳng cạnh, không cong như hình vẽ chuỗi đảo trên hai bản đồ của Bartholomen Velho và João de Lisboa. Phía bắc chuỗi đảo này là cụm đảo có tên là I. des baixos Cachina (Bãi ngầm Giao Chỉ). Điểm cuối ở phía nam là đảo Pulo Sissi (Cù Lao Thu).[9] Phía tây chuỗi đảo này các hòn đảo ven bờ biển Đàng Trong, được định danh là P. Champello (Cù Lao Chàm), P. Cotao (Cù Lao Ré), P. Cambiz (Cù Lao Xanh). Như vậy là từ năm 1571, Fernão Vaz Dourado đã phân biệt I. des baixos Cachina (Bãi ngầm Giao Chỉ, tức là quần đảo Hoàng Sa) với các đảo ven bờ như Cù Lao Chàm, Cù Lao Ré, Cù Lao Xanh...

Năm 1576, Fernão Vaz Dourado công bố thêm một bản đồ vẽ khu vực Đông Nam Á [10] (Bản đồ 16), trên đó cũng có hình vẽ chuỗi đảo ở ngoài khơi vùng biển Đàng Trong tương tự như hình vẽ trên bản đồ Cabo Comorim, Japao, Moluco e Note in Atlas 1571. Tuy nhiên tên của quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ này ghi là I. da Pracell, không phải là I. des baixos Cachina như trên bản đồ do ông công bố năm 1571.

Trong thập niên 90 của thế kỷ XVI có thêm nhiều bản đồ công bố ở phương Tây có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa như các bản đồ của: Barthlomen Lasso, Van Langren, Linschoten, Petrus Plancius…

Barthlomen Lasso có hai bản đồ vẽ vào các năm 1590 và 1592 - 1594. Trên hai bản đồ này quần đảo Pracel được vẽ như hình lưỡi dao dài ở Biển Đông, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và những đảo nhỏ khác ở phía nam. Vùng bờ biển phía tây ghi nhiều địa danh như: Varella (Mũi Nạy, tức mũi Đại Lãnh), Pulo Cambi (Cù Lao Xanh), Pulo Cantão (Cù Lao Ré, tức đảo Lý Sơn) Sinoa (Thuận Hóa)... Đặc biệt, vùng bờ biển giáp với Pulo Cantão được ghi trên bản đồ là Costa de Pracel (Bờ biển Hoàng Sa). Điều này chứng tỏ vào cuối thế kỷ XVI, các nhà vẽ bản đồ phương Tây đã ghi nhận “một sự liên hệ nào đó về mặt địa lý giữa vùng biển tỉnh Quảng Ngãi, Cù Lao Ré và quần đảo Paracels”.[11]

Bản đồ Insullae Moluccae do Petrus Plancius (1552 - 1622)[12] vẽ năm 1592 (Bản đồ 17). Quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ này cũng được gọi là Pracel, bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa và một số đảo ở phía nam Biển Đông. Bờ biển đối diện với Pracel ở phía tây cũng được gọi là Costa da Pracel. Riêng cụm đảo ở phía bắc chuỗi đảo này thì được ghi danh là Doa Tavaquero thay cho các tên gọi I. des baixos Cachina hay I. da Pracell như trên các bản đồ của người Bồ Đào Nha

Năm 1595, hai anh em người Hà Lan là Van Langren đã công bố tấm bản đồ vẽ rất toàn diện và chi tiết về khu vực Đông Á (Bản đồ 18). Trên bản đồ này cũng có vẽ chuỗi đảo hình lưỡi dao ở ngoài khơi vùng biển Đàng Trong, với cụm đảo ở cực bắc tên là I. de Pracel, còn vùng bờ biển đối diện ở phía tây có tên là Costa de Pracel. Hình vẽ chuỗi đảo này không dài và cong như trên các bản đồ trước đó, mà chỉ giới hạn trong phạm vi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời có sự phân biệt rõ ràng với các đảo ven bờ và các đảo ở phía nam. Điều này cho thấy đến thời điểm này thì nhận thức về Hoàng Sa và Trường Sa của người phương Tây đã sát với thực tế hơn so với trước đó. “Có thể nói rằng, bản đồ Van Langren đã đánh dấu sự chuyển giao thế thượng phong ở Biển Đông từ các nhà hàng hải Bồ Đào Nha sang các nhà hàng hải Hà Lan”.[13]

Bản đồ do Linschoten công bố năm 1599 có lẽ là bản đồ cuối cùng của các nhà hàng hải phương Tây trong thế kỷ XVI có vẽ quần đảo Hoàng Sa.[14] Bản đồ này xác nhận những điều đã được thể hiện trên bản đồ của anh em Van Langren nhưng chi tiết hơn. Ba đảo ven bờ được ghi tên lên bản đồ này là Polo Cecir (Cù Lao Thu) ở cực nam, bãi đá Pracel đi qua phía đông Polo Cambir (Cù Lao Xanh) và Pulo Ampelo (Cù Lao Chàm). Tận cùng ở phía bắc là các đảo ngoài khơi nằm ngang hàng với Pulo Ampelo ở gần bờ.[15]

Thế kỷ XVII ở phương Tây xuất hiện thêm nhiều bản đồ có hình vẽ quần đảo quần đảo Hoàng Sa với các tên gọi: Parcels, Paracels, Paracel Islands… và ghi nhận mối liên hệ giữa quần đảo này với lãnh thổ Việt Nam lúc đó. Đó là các bản đồ: Insulæ Indiæ Orientalis Praæcipuæ (do Jodocus Hondius thực hiện năm 1606), India Orientalis (do Jodocus Hondius thực hiện năm 1613) (Bản đồ 19), Asia noviter delineata (do Willem Janszoon Blaeu thực hiện năm 1617), Asia (do John Speed thực hiện năm 1626), Asia (do John Speed thực hiện năm 1626), India Orientalis (do Gerard Mercator thực hiện năm 1630), Insulæ Indiæ Orientalis (do Jodocus Hondius thực hiện năm 1632), bản đồ khuyết danh (do Pedro Berthelot vẽ năm 1635), Asia (do Herman Moll thực hiện năm 1636), Carte de l’Asie (do Van Lochem thực hiện năm 1640), India quæ Orientalis dicitur, et Insvlæ Adiacentes (do Willem Janszoon Blaeu thực hiện năm 1645), Indiæ Orientalis Nova Desriptio (do Janssouius thực hiện năm 1645), Tabula Indiæ Orientalis (do F. De Wit thực hiện năm 1662), Indiæ Orientalis (do Visscher thực hiện năm 1680), Carte du Royaume de Siam et des pays circonvoisins (do P. du Val thực hiện năm 1686), The East Indies in trong tập du ký của W. Dampier xuất bản năm 1688…[16] Quần đảo Pracel / Parcel / Paracels trên những bản đồ này thường được vẽ gộp cả Hoàng Sa và Trường Sa, và bắt đầu vẽ dịch lên phía bắc, gần đúng với vị trí thực tế của hai quần đảo này. Một số bản đồ ghi tên quần đảo Hoàng Sa là I. de Pracel như các bản đồ của Janssouius (1645), của F. De Wit (1662) của Visscher (1680); là Island Pracell như bản đồ của Thornton (1669); là Shoales of Pracel như bản đồ của W. Dampier (1688).

Thế kỷ XVIII có thêm nhiều bản đồ vẽ khu vực Biển Đông và quần đảo Hoàng Sa được công bố ở phương Tây. Đó là các bản đồ: L’ Asia (do Dressée thực hiện năm 1700), Carte des Costes de l’Asie sur l’ocean contenant les bancs isles et costes & c. (do Alexis Hubert Jaillot thực hiện năm 1720), India Orientalis (do Seutter thực hiện năm 1720), A Map of the Continental of the East-Indie (do Herman Moll thực hiện năm 1736), Carte de l’Asia (do Homann Heirs thực hiện năm 1744), Carte de Costes de Cochinchine, Tunquin et partie de celles de la Chine (do Kaart van de Kusten thực hiện năm 1754), Seconde partie de la carte d’Asie (do Jean Baptiste d’Anville thực hiện năm 1752), A New and Elegant Imperial Sheet Atlas (do Robert Laurie xuất bản năm 1794), East Indies (do Thomas Salmon thực hiện năm 1767), Karte von dem Morgenlændichen Ocean oder dem Indischen Meere (do Jacques Nicolas Bellin thực hiện khoảng năm 1770), Carte generale des Indes orientales et des Islles Adiacentes (do Mariette xuất bản năm 1790), Carte Hydro-Geographique des Indes Orientales (do M. Bonne xuất bản năm 1791)…

Đáng chú ý là bản đồ Carte de Costes de Cochinchine, Tunquin et partie de celles de la Chine do Kaart van de Kusten thực hiện năm 1754 (Bản đồ 20). Trên bản đồ này, mặc dù bao quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn còn đường viền hình lưỡi dao, và tên chung của hai quần đảo này là Le Paracel, nhưng các đảo thuộc hai quần đảo này đã được vẽ tách rời và đã phân biệt Les Lunettes (nhóm Nguyệt Thiềm) ở phía đông với các đảo còn lại ở phía tây của quần đảo Hoàng Sa.

Tấm bản đồ in trong cuốn Neptune Oriental của A. de Manneviletle xuất bản năm 1775, được đánh giá là “đã có nhiều tiến bộ so với các bản đồ của các nhà hàng hải Bồ Đào Nha, tuy nhận thức vẫn chưa có những thay đổi cơ bản” [17], do lẽ trên bản đồ này có đoạn ghi chú mô tả khá rõ về quần đảo Hoàng Sa: “Paracels là một bãi đá lớn, trải rộng ra từ bắc xuống nam ở ngoài khơi bờ biển xứ Đàng Trong. Phần lớn các bản đồ đều ghi là chiều dài của nó khoảng chừng 92 dặm, từ 12010’ đến 16045’ vĩ độ Bắc, còn chiều rộng của nó khoảng chừng 20 dặm. Trong vài năm gần đây, người ta đã nhận biết rằng không gian này đã chứa chất đầy nhiều hòn đảo to nhỏ khác nhau, với những bãi cát và bãi đá ở rất nhiều nơi”.[18]



Thế kỷ XIX ghi nhận sự xuất hiện ngày càng nhiều bản đồ liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngoài những bản đồ của Pháp, Đức, Bỉ... thời kỳ này xuất hiện nhiều bản đồ của Anh và Hoa Kỳ, đánh dấu sự trỗi dậy của hai cường quốc này trong việc chinh phục các đại dương trên thế giới. Tiêu biểu là các bản đồ: An Accurate map of the East Indies (do Thomas Banke xuất bản tại London năm 1805), Chart of the East India Islands (do Longman Hurst Rees & Orme Paternoster Row xuất bản tại Anh năm 1808), A New Map of the East India Isles (do J. Carry thực hiện năm 1811), East India Isles (do John Thomson thực hiện năm 1817), East India Islands (do Samuel Walker xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1834), An Nam đại quốc họa đồ (do Giám mục Jean Louis Taberd thực hiện năm 1838), Ost-Indien (do Stieler’s Hand-Atlas xuất bản tại Đức năm 1870), Map of Indo- China (do Scottish Geographica Magazine xuất bản tại Anh năm 1886), Asia (do McNally & Company’s xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1887), Siam and the Malay Archipelago (do The Times Atlas, Printing House Square xuất bản tại Anh năm 1896). Trên các bản đồ này luôn có hình vẽ quần đảo Hoàng Sa với các tên gọi là I. de Paracel, Paracels, Paracel Islands, I. Ciampa (đảo Champa).[19]

Đặc biệt, có hai bản đồ khẳng định chắc chắn quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam được xuất bản trong nửa đầu thế kỷ XIX. Đó là bản đồ Partie de la Cochinchine (Bản đồ 21) trong bộ Atlas Universel (6 tập) do nhà địa lý học người Bỉ Philippe Vandermaelen biên soạn, xuất bản tại Bruxelles (Bỉ) vào năm 1827 và An Nam đại quốc họa đồ do Giám mục Jean Louis Taberd vẽ (Bản đồ 22), in trong từ điển Latin - Annam xuất bản năm 1838.

Bản đồ Partie de la Cochinchine là tờ bản đồ số 106 trong tập 2 (Asie)   của bộ Atlas Universel. Bản đồ này vẽ vùng bờ biển miền Trung Việt Nam kéo dài từ vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 16, gồm các vùng: Bink-Kang (Bình Khang, tên cũ của tỉnh Khánh Hòa), có các địa danh: Carmraigne havre (cảng Cam Ranh), Nhiatrang (Nha Trang); Quin-Hone (Quy Nhơn), có các địa danh: Phuyen havre (cảng Phú Yên), Cambir B. (Cù Lao Xanh, nay là xã đảo Nhơn Châu ở thành phố Quy Nhơn), P. Quinhone (Quy Nhơn), Batangan (mũi Ba Làng An, Bình Sơn, Quảng Ngãi)… ở trên đất liền và ven bờ biển. Bản đồ còn thể hiện một chuỗi đảo ven biển, bắt đầu từ các đảo thuộc vịnh Cam Ranh ở phía nam, chạy lên phía bắc với hơn 20 hòn đảo lớn nhỏ và kết thúc bằng quần đảo Cham Collac ou Champella (Cù Lao Chàm) ở ven biển Quảng Nam.

Điểm quan trọng nhất là ở phần chính của bản đồ có hình vẽ quần đảo Paracels nằm trong vùng biển có vĩ độ từ 160 đến 170, kinh độ từ 1090 đến 1110, gồm các đảo: I. Pattles (đảo Hoàng Sa), I. Dccan (đảo Duncan, tức đảo Quang Hòa), Tree I. (đảo Cây), I. Lincoln (đảo Lincoln), Triton (nhóm đảo Tri Tôn), Rocher au dessus de l’eau (khu vực Đá Bông Bay). Vị trí các đảo, đá, nhóm đảo… thuộc quần đảo Paracels trên bản đồ này là tương đối chính xác so với tọa độ thực tế hiện nay.

Bên phải hình vẽ quần đảo Paracels là ô hình chữ nhật ghi dòng chữ Empire d’An-nam (Đế chế An Nam) giới thiệu tóm tắt về vương quốc An Nam bằng tiếng Pháp, theo từng tiểu mục: Phisique (Hình thế), Politique (Thể chế chính trị), Statistique (Thống kê) và Minéralogie (Khoáng vật).

Cách đặt tên bản đồ là Partie de la Cochinchine, việc thể hiện các địa danh trên đất liền, các đảo ven bờ biển và quần đảo Paracels ở ngoài khơi vùng biển Việt Nam cùng với việc giới thiệu vương quốc An Nam trên bản đồ, cũng như việc xếp tờ bản đồ này vào nhóm bản đồ miêu tả hình thế và vị trí địa lý của Việt Nam đương thời trong bộ Atlas Universel chứng tỏ tác giả bộ atlas này đã thừa nhận Paracels là một phần lãnh thổ của đế chế An Nam lúc đó. Tờ bản đồ này lại nằm trong bộ bản đồ thế giới do một nhà địa lý học của phương Tây biên soạn từ đầu thế kỷ XIX, được Viện Địa lý Hoàng gia Bỉ xuất bản chính thức nên có giá trị khoa học và giá trị pháp lý rất cao.

Cũng lưu ý thêm rằng, từ thế kỷ XVI các nhà địa lý và nhà hàng hải phương Tây, đầu tiên là những người Bồ Đào Nha, đã vẽ bản đồ vùng biển Hoàng Sa và đã định danh Pracel (hay Parcel, Paracels) trên bản đồ để chỉ cụm đảo mà người Việt gọi là Bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa. Đồng thời, họ cũng định danh vùng bờ biển đối diện với quần đảo Pracel (Parcel, Paracels) ở phía tây là Costa de Pracel / Coste de Paracels (Bờ biển Hoàng Sa). Tuy nhiên vào thời điểm này, vị trí Paracels trên các bản đồ phương Tây cũng như vị trí quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ cổ Việt Nam chưa được thể hiện chính xác về tọa độ. Paracels theo cách hiểu của người phương Tây cũng như quần đảo Hoàng Sa người Việt lúc đó bao gồm cả quần đảo Trường Sa ngày nay, thậm chí cả một số đảo gần bờ ở vùng biển Nam Trung Bộ. Song với tấm bản đồ Partie de la Cochinchine thì các đảo ven bờ như: Cham Collac ou Champella (Cù Lao Chàm), Cambir B. (Cù Lao Xanh), P. Canton ou Cacitam (Cù Lao Ré, đảo Lý Sơn)… đã có sự phân biệt rạch ròi với Paracels (quần đảo Hoàng Sa) ở giữa Biển Đông.
Sau Philippe Vandermaelen, trong cuốn từ điển Latinh - Annam xuất bản năm 1838, Giám mục Jean Louis Taberd công bố tờ bản đồ có tên ghi bằng ba ngôn ngữ: Hán - Quốc ngữ - Latin: 安南大國畫圖 / An Nam đại quốc họa đồ / Tabula Geografica Imperii Anamiciti. Trên bản đồ này có vẽ 9 dấu chấm nhỏ tượng trưng cho quần đảo Hoàng Sa, có tọa độ gần đúng với thực tế, kèm theo dòng chú thích “Paracel seu Cát Vàng” (Paracel tức là Cát Vàng). Trong bài viết Note on the Geography of Cochin China in trên tập san The Journal of the Asiatic Society of Bengal (Vol. 6, Part II) xuất bản năm 1837, Giám mục Taberd đã viết: “Paracel, hay Pracel, tức là Hoàng Sa - Cồn Vàng, thuộc về Cochin China (Việt Nam)”, đồng thời khẳng định vào năm 1816, vua Gia Long đã cho người đến cắm cờ và tuyên bố chủ quyền trên quần đảo này mà không gặp bất cứ ai tranh chấp với ông về việc này.

Cùng với bản đồ Partie de la Cochinchine của Philippe Vandermaelen, bản đồ An Nam đại quốc họa đồ của Jean Louis Taberd đã khẳng định Paracels chính là Cát Vàng hay quần đảo Hoàng Sa và thuộc về Việt Nam. Đây là bằng chứng để bác bỏ ý kiến của học giới Trung Quốc khi họ cho rằng Paracels chính là Xisha qundao (Tây Sa quần đảo) và thuộc về Trung Quốc. Còn quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền chỉ những đảo nhỏ ven bờ như Cù Lao Chàm, Cù Lao Ré… không liên quan gì đến Paracels.



 Như vậy, ngoài những sự kiện lịch sử đã được chứng thực, cùng với các nguồn tư liệu thành văn được ghi chép bởi nhiều ngôn ngữ khác nhau, thì những tấm bản đồ cổ của phương Tây đã chứng minh từ gần năm thế kỷ trước, Việt Nam đã xác lập chủ quyền quốc gia đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này được ghi nhận trên những tấm bản đồ do nhà bản đồ học, các nhà hàng hải, các nhà phát kiến địa lý phương Tây soạn vẽ và công bố trong các thế kỷ XVI - XIX. Đây chính là nguồn tư liệu quý, góp phần khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


CHÚ THÍCH

[1]. Tập tài liệu này còn có tên là Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, lưu trữ trong một số thư viện ở Việt Nam, Nhật Bản, Pháp… và được ghép chung với nhiều tập bản đồ khác nhau như: Hồng Đức bản đồ, Toản tập An Nam lộ, Giáp Ngọ niên bình Nam đồ…
[2]. Chỉ các chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
[3]. Dẫn theo: Nguyễn Quang Ngọc, “Hoàng Sa Trường Sa: Những trang sử được viết bằng máu”, Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, số 275, tháng 7/2011.
[4]. Địa danh I. des baixos Cachina xuất hiện trên bản đồ Cabo Comorim, Japao, Moluco e Note do Fernão Vaz Dourado, người Bồ Đào Nha, vẽ năm 1571.
[5]. Địa danh I. do Pracell xuất hiện trên bản đồ do Fernão Vaz Dourado vẽ năm 1576.
[6]. Nguyễn Đình Đầu, Giới thiệu một số bản đồ cổ thềm lục địa và hải đảo Việt Nam, http://www.viet-studies.info.
[7]. Bản đồ này nằm trong tập tài liệu chép tay, tựa là Livro da Marinharia, gồm 20 tờ bản đồ và 254 trang văn bản (ký hiệu PT-TT-CRT-166) đang lưu trữ tại Văn khố Quốc gia Bồ Đào Nha (Arquivo Nacional da Torre do Tombo) ở Lisbon. Về sau, bản đồ này được chép lại trong cuốn Peregrination của giáo sĩ kiêm nhà hàng hải người Bồ Đào Nha F.M. Pinto nên nhiều người thường tưởng nhầm F.M. Pinto là tác giả bản đồ này, trong khi nhiều người khác thường gọi bản đồ này là “bản đồ Livro da Marinharia”. Điều này cũng không chính xác vì trong tập tài liệu Livro da Marinharia có đến 24 bản đồ vẽ nhiều vùng khác nhau trên thế giới.
[8]. Bản đồ này (ký hiệu PT-TT-CRT-165-m0008) đang lưu trữ tại Văn khố Quốc gia Bồ Đào Nha ở Lisbon.
[9]. Tên của Cù Lao Thu trên các bản đồ phương Tây viết khác nhau, tùy từng thời điểm và tùy từng ngôn ngữ: Pulo Ceciss, Pulo Sissi, Pulo Cecir de Mer, Pullo Sissir do Mar…
[10]. Bản đồ này (ký hiệu PT-TT-CRT-165-m0009) đang lưu trữ tại Văn khố Quốc gia Bồ Đào Nha. Ngoài ra còn có tờ bản đồ tương tự, tái bản vào năm 1843 (ký hiệu il-171_0034_29_t0) đang lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Bồ Đào Nha ở Lisbon.
[11]. Nguyễn Thừa Hỷ, “Quần đảo Paracels và các nhà hàng hải Bồ Đào Nha trong thế kỷ XVI”. In trong: Nguyễn Văn Kim (Chủ biên), Người Việt với biển, Nxb Thế Giới, Hà Nội, 2011, tr. 469.
[12]. Petrus Plancius là tên Latin của nhà địa lý học người Bỉ Pieter Platevoet. Ông là một trong những thành viên sáng lập Công ty Đông Ấn Hà Lan (V.O.C), đã vẽ hơn 100 bản đồ nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Petrus Plancius cũng là người thực hiện tờ bản đồ quy mô về châu Á có tên là Exacta & accurata delinatio… regionibus China, Cauchinchina, Camboja, sive Champa, Syao, Malacca, Arracan & Pegu trong cuốn sách nổi tiếng Itinerario của Jan Huygen van Linschoten, xuất bản năm 1596.
[13]. Nhận xét của PGS.TS. Nguyễn Thừa Hỷ trong bài “Quần đảo Paracels và các nhà hàng hải Bồ Đào Nha trong thế kỷ XVI”, Sách đã dẫn, tr. 469.
[14]. Bản đồ này đã được giới thiệu trong cuốn Nordenskiold-Périphis, được giới thiệu trong bài nghiên cứu “Note sur I’histoire de la Cartographie Indochinoise” của M.Cl. Maitre in trong tập Atlas de Chabert-Gallois, xuất bản ở Hà Nội và Hải Phòng năm 1909).
[15], [16], [18]. Dẫn theo: Nguyễn Thừa Hỷ “Quần đảo Paracels và các nhà hàng hải Bồ Đào Nha trong thế kỷ XVI”, Sách đã dẫn, tr. 469, 479, 489.
[17]. Đánh giá của PGS.TS. Nguyễn Thừa Hỷ trong bài “Quần đảo Paracels và các nhà hàng hải Bồ Đào Nha trong thế kỷ XVI”, Sách đã dẫn, tr. 489.
[19]. Trên bản đồ Carte de l’Asia do Homann Heirs vẽ năm 1744, hình vẽ quần đảo Hoàng Sa cũng được gộp chung với quần đảo Trường Sa và ghi tên là I. Ciampa, nghĩa là “đảo (thuộc) Ciampa”. Ciempa hay Campa là tên các nước phương Tây lúc bấy giờ gọi xứ Đàng Trong, do họ cho rằng đây là đất cũ của vương quốc Champa.

Ghi chú: Các bản đồ từ 1 đến 14 (trừ bản đồ 13) giới thiệu ở đây được trích dẫn từ sách "Một số tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa và một số vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông" do Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản năm 2014. Những bản đồ còn lại trong bài này thuộc Fond tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với huyện đảo Hoàng Sa - Thành phố Đà Nẵng do TĐAS chủ trì thực hiện.

Trần Đức Anh Sơn

TƯ LIỆU BẢN ĐỒ CHỨNG MINH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
ĐỐI VỚI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA


Trần Đức Anh Sơn


(Kỳ 2)

III. BẢN ĐỒ CỔ TRUNG QUỐC CHỨNG MINH QUẦN ĐẢO HOÀNG SA KHÔNG THUỘC CHỦ QUYỀN CỦA TRUNG QUỐC

Kể từ khi bắt đầu tranh chấp với chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào năm 1909, chính quyền và học giới Trung Quốc bắt đầu tìm kiếm những tư liệu thư tịch và bản đồ cổ của Trung Quốc có liên quan đến địa lý và lịch sử Biển Đông, Hoàng Sa và Trường Sa để chứng minh quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, mà họ gọi là Xisha qundao (Tây Sa quần đảo) và Nansha qundao (Nam Sa quần đảo) thuộc về Trung Quốc.

Tuy nhiên, cả thư tịch cổ và bản đồ cổ mà họ trích cứu từ thời Tần - Hán cho đến thời Minh - Thanh, dài ngót 2.000 năm, đều phản ánh một sự thật là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ thuộc về Trung Quốc như họ đã tuyên bố trong mấy chục năm qua.

Đối với nguồn tư liệu bản đồ, nhiều học giả Việt Nam và quốc tế đã dày công nghiên cứu hàng trăm bản đồ quốc gia, dư đồ, địa đồ của các địa phương ở phía nam Trung Quốc do chính quyền và các học giả Trung Quốc soạn vẽ và công bố từ thời Tần - Hán (đầu Công nguyên) cho đến thời Trung Hoa Dân quốc (nửa đầu thế kỷ XX) đều xác nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam không hề xuất hiện trên bản đồ Trung Quốc. Những bản đồ do triều đình phong kiến và các học giả Trung Quốc soạn vẽ từ thời Minh trở về trước thì: hoặc là ghi nhận đảo Hải Nam là cực nam của Trung Quốc và không thể hiện hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong cương vực Trung Quốc, hoặc có ghi nhận hai quần đảo này bằng các tên gọi Vạn Lý Trường Sa, Thiên Lý Thạch Đường… nhưng chú dẫn đó là những đảo thuộc “Phiên quốc” (nước ngoài). Nói cách khác bản đồ cổ Trung Quốc khẳng định hai quần đảo này không thuộc về nước này.

Dưới thời nhà Thanh (1644 - 1911), việc vẽ bản đồ quốc gia và bản đồ các tỉnh của Trung Quốc rất được các vị hoàng đế của triều đại này chú trọng. Bấy giờ Trung Quốc đã áp dụng kỹ thuật đo vẽ bản đồ tiên tiến của phương Tây và đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong khảo sát, đo vẽ và in ấn bản đồ của Trung Quốc. Năm 1708, hoàng đế Khang Hi sử dụng các giáo sĩ Dòng Tên đến từ phương Tây để tiến hành khảo sát, đo vẽ bản đồ trên toàn cõi Trung Hoa. Sau gần 10 năm thực hiện thì công việc hoàn thành với kết quả là sự ra đời bộ bản đồ Hoàng dư toàn lãm đồ (皇輿全覽圖) vào năm 1717.[20] Đây là bộ bản đồ công phu và hoàn chỉnh nhất về cương giới Trung Quốc cho đến thời điểm bấy giờ do nhà Thanh chính thức ấn hành. Bản đồ có tỉ lệ từ 1: 4000.000 đến 1: 5000.000, in khắc gỗ có 28 tờ bản đồ, có cả bản đồ Mông Cổ và Mãn Châu, nhưng không có bản đồ Tân Cương và Tây Tạng.[21] Trên bộ bản đồ này, cương vực phía đông nam của Trung Quốc thực sự chấm dứt ở đảo Hải Nam.

Năm 1728, nhà Thanh xuất bản bộ bách khoa thư Cổ kim đồ thư tập thành (古今圖書集成)[22] một vạn quyển, trong đó tập hợp 216 bản đồ là toàn đồ và bản đồ các tỉnh của Trung Quốc trong suốt diễn trình lịch sử của đế chế này. Vậy nhưng, trong tập bách khoa thư đồ sộ này hoàn toàn không có bản đồ nào ghi nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc.[23] Quyển 1 trong mục Chức phương điển (Sách điển chế về địa đồ các đơn vị hành chính) của bộ bách khoa thư này có các bản đồ: Chức phương tổng bộ đồ, Quảng Đông cương vực đồ, Quỳnh Châu phủ cương vực đồ, là những bản đồ vẽ về phần lãnh thổ phương nam của Trung Quốc đến đời Khang Hi (1661 - 1722) nhà Thanh, đều không ghi nhận các quần đảo xa hơn đảo Hải Nam.[24] Ngoài ra, sách Quảng Đông lịch sử địa đồ tập khi trích in lại địa đồ từ sách Quảng Đông thông chí biên soạn đời Gia Tĩnh (1522 - 1566) triều Minh thì phần hải đảo của Trung Quốc chỉ giới hạn ở Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam).[25]

Ngoài các bản đồ trong bộ Hoàng dư toàn lãm phân đồ và trong bách khoa thư Cổ kim đồ thư tập thành, còn có nhiều bản đồ do nhà Thanh hoặc do chính quyền các tỉnh ở Trung Quốc xuất bản chính thức, không hề ghi nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tiêu biểu là các bản đồ: Hoàng dư toàn lãm phân tỉnh đồ (皇與全覽分省圖) ấn hành khoảng năm 1717, Nhị kinh thập bát tỉnh tổng đồ (二京十八省圖) (Bản đồ 23) và Quảng Đông toàn đồ (廣東全圖) (Bản đồ 24) trong sách Thanh nhị kinh thập bát tỉnh cương vực toàn đồ (清二京十八省疆域全圖) ấn hành năm 1850, Hoàng dư toàn đồ (皇輿全圖) ấn hành năm 1899, 廣東省 (Quảng Đông tỉnh) trong sách Địa dư đồ khảo (地與圖考) (Bản đồ 25) ấn hành đời Quang Tự (1875 - 1908), Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ (皇朝直省地與全圖) ấn hành năm 1904 (Bản đồ 26), Đại Thanh đế quốc (大清帝國) trong sách Thanh đại địa đồ tập (清大地圖集) ấn hành năm 1905, Đại Thanh đế quốc (大清帝國) (Bản đồ 27) và Quảng Đông tỉnh (廣東省) trong sách Đại Thanh đế quốc toàn đồ (大清帝國全圖) ấn hành năm 1908; Trung Hoa dân quốc phân tỉnh tân đồ (中華民國分省新圖) (Bản đồ 28)… Điểm chung của các bản đồ này là cương giới cực nam của Trung Quốc luôn dừng lại ở đảo Hải Nam.

Mặt khác, sách Hải quốc đồ chí do Ngụy Nguyên biên soạn vào năm 1842 có in bức địa đồ Đông nam dương các quốc diên cách đồ (東南洋各國延隔圖)[26], trên đó có vẽ khá chi tiết hai quần đảo Vạn Lý Trường Sa và Thiên Lý Thạch Đường, là hai quần đảo mà học giới Trung Quốc ngày nay cho là Xisha qundao và Nansha qundao và nhận “vơ” là của Trung Quốc, thì tác giả sách này lại xác nhận hai quần đảo này nằm ngoài cương vực Trung Quốc như cách đặt tên địa đồ này.[27]

Đặc biệt, từ năm 1908 đến năm 1933, triều đình nhà Thanh và sau đó là Chính phủ Trung Hoa Dân quốc đã tổ chức đo đạc, biên soạn và xuất bản bốn atlas[28] rất quy mô và công phu, theo kỹ thuật vẽ bản đồ của phương Tây, tập hợp các bản đồ hành chính và bản đồ bưu chính tất cả tỉnh thành của Trung Quốc để phát hành ra thế giới. Đó là các atlas:

- Atlas of the Chinese Empire / 中國地圖 [29] xuất bản bằng tiếng Anh năm 1908. Atlas này gồm một bản đồ tổng thể (Index Map) (Bản đồ 29) vẽ lãnh thổ Trung Quốc và 22 bản đồ các tỉnh của Trung Quốc. Các bản đồ đều có kích thước 31 cm x 41 cm. Ðây là atlas do phái bộ truyền giáo The China Inland Mission có trụ sở ở Thượng Hải (Trung Quốc) biên soạn và in ấn với sự trợ giúp kỹ thuật của một người Anh tên là Edward Stanford. Đây cũng là bộ atlas đầu tiên theo kiểu phương Tây được xuất bản ở Trung Quốc, và được phát hành với sự giúp đỡ của Tổng cục Bưu chính nhà Thanh.

- Complete Atlas of the China / 中國全圖[30] xuất bản bằng tiếng Anh năm 1917. Đây là ấn phẩm tái bản của Atlas of the Chinese Empire / 中國地圖, cũng bao gồm toàn đồ nước Trung Quốc (Bản đồ 30) và 22 bản đồ các tỉnh, in cùng kích thước, hình thức, màu sắc như Atlas of the Chinese Empire / 中國地圖.

- Atlas Postal de Chine / 中華郵政與圖[31] / Postal Atlas of China do Tổng cục Bưu chính thuộc Bộ Giao thông của Trung Hoa Dân quốc xuất bản tại Nam Kinh năm 1919. Atlas được in bằng ba thứ tiếng Trung - Anh - Pháp, gồm một bản đồ tổng thể (Bản đồ 31) và 46 bản đồ các tỉnh của Trung Quốc. Các bản đồ đều có kích thước 61 cm x 71 cm.

- Atlas Postal de Chine / 中華郵政與圖 / Postal Atlas of China, cũng do Tổng cục Bưu chính thuộc Bộ Giao thông của Trung Hoa Dân quốc xuất bản tại Nam Kinh vào năm 1933. Đây là ấn phẩm tái bản có bổ sung của Atlas Postal de Chine / 中華郵政與圖 / Postal Atlas of China xuất bản lần đầu vào năm 1919. Atlas này cũng in bằng ba thứ tiếng Trung - Anh - Pháp, gồm một bản đồ tổng thể (Bản đồ 32) và 29 bản đồ các tỉnh của Trung Quốc, bao gồm cả Tây Tạng và Mông Cổ. Các bản đồ trong atlas này đều có kích thước 61 cm x 71 cm. Tấm bản đồ số 23 trong atlas này là bản đồ tỉnh Quảng Đông và đảo Hải Nam, nhưng do kích thước atlas hạn chế nên đảo Hải Nam được in ở góc trái phía trên tấm bản đồ tỉnh Quảng Đông.[32]

Các atlas nói trên là sản phẩm của chương trình thiết lập bản đồ do nhà Thanh đề ra vào năm 1906 và được chính phủ Trung Hoa Dân quốc kế tục vào các năm sau đó. Các bản đồ vẽ chi tiết ở từng tỉnh, thể hiện rõ các con đường vận chuyển thư từ, công văn trong các tỉnh thành của Trung Quốc bấy giờ. Nơi nào không thuộc lãnh thổ Trung Quốc thì không được thể hiện trên các bản đồ trong atlas. Vì thế mà cương giới cực nam của Trung Quốc trong các atlas này luôn chỉ giới hạn đến đảo Hải Nam, không hề có hình vẽ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Cuối các atlas này đều có phần Index rất chi tiết, liệt kê các địa danh của Trung Quốc từ cấp hương, trấn đến cấp phủ, tỉnh và kinh sư nhưng không có địa danh nào tên là Xisha qundao hay Nansha qundao. Điều này chứng tỏ cho đến khi nhà Thanh ấn hành Atlas of the Chinese Empire / 中國地圖 vào năm 1908 và sau đó Chính quyền Trung Hoa Dân quốc tái bản Complete Atlas of the China / 中國全圖 vào năm 1917, đồng thời tiếp tục biên soạn và xuất bản Atlas Postal de Chine / 中華郵政與圖 / Postal Atlas of China vào các năm 1919 và 1933, thì hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, mà Trung Quốc gọi là Xisha qundao và Nansha qundao, vẫn nằm ngoài cái gọi là “chủ quyền lịch sử” phi pháp do họ mới bịa ra trong mấy chục năm trở lại đây.

Tóm lại, bản đồ hành chính quốc gia và bản đồ các địa phương của Trung Quốc từ thời Trung Hoa Dân quốc trở về trước đều không vẽ các đảo nằm ở phía nam đảo Hải Nam mà chỉ giới hạn cương vực Trung Quốc trong phạm vi phía bắc vĩ tuyến 18, và do vậy, không hề có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên các bản đồ này. Sử sách Trung Quốc cũng chép việc các quan lại nhà Thanh thường dùng các chữ 海角天涯 (hải giác thiên nhai)[33] để chỉ trấn Tam Á, huyện Nhai tức là vùng đất phía nam tỉnh Hải Nam ngày nay.[34] Ở trấn Du Lâm, cực nam của đảo Hải Nam ngày nay vẫn còn các tảng đá tự nhiên rất lớn, được cư dân địa phương coi là danh thắng của vùng này. Trên tảng đá đẹp nhất ở sát biển có khắc các đại tự 天涯 (thiên nhai) và 海闊天空 (hải khoát thiên không).[35]

Như vậy, từ thư tịch, đến bản đồ cổ do Trung Quốc xuất bản từ trước đến nay, cũng như những dấu tích ở trên thực địa đều nhất quán xác nhận rằng, cương giới cực nam của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam, không thuộc chủ quyền Trung Quốc như họ đang yêu sách phi lý và hung hăng tranh chấp như hiện nay.

IV. BẢN ĐỒ CỔ TRUNG QUỐC DO PHƯƠNG TÂY XUẤT BẢN CHỨNG MINH QUẦN ĐẢO HOÀNG SA KHÔNG THUỘC CHỦ QUYỀN CỦA TRUNG QUỐC

Chiều ngày 28.3.2014, trong tiệc chiêu đãi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhân chuyến thăm của ông này đến Cộng hòa Liên bang Đức, Thủ tướng nước chủ nhà, bà Angela Merkel, đã tặng một tấm bản đồ cổ vẽ lãnh thổ Trung Quốc (Ảnh gần cuối). Tấm bản đồ có tên là China Proper (Trung Quốc đích thực), do nhà bản đồ học người Pháp Jean-Baptiste Bourguignon d’Anville vẽ, dựa trên các cuộc khảo sát địa lý do các nhà truyền giáo Dòng Tên thực hiện ở Trung Quốc trước đó, và được một nhà xuất bản ở Đức xuất bản năm 1735 (Bản đồ 33).

Sự kiện này gây chú ý của giới truyền thông quốc tế bởi tấm bản đồ Trung Quốc mà Thủ tướng Đức Merken tặng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình là tấm bản đồ không thể hiện các khu vực Tây Tạng, Tân Cương và Mãn Châu Lý thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Các đảo Hải Nam và Đài Loan có trên bản đồ nhưng được tô màu khác với màu của lãnh thổ Trung Quốc. Quần đảo Senkaku / Diaoyu (Điếu Ngư) mà Trung Quốc đang yêu sách chủ quyền với Nhật Bản cũng không được thể hiện là lãnh thổ của Trung Quốc. Và tất nhiên, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam cũng không hề có trên bản đồ này. Báo chí quốc tế bình luận đây là “cái tát ngoại giao” đối với Chủ tịch Tập và là một thông điệp mà Thủ tướng Merkel muốn gửi đến nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc nhằm phản ứng chính sách tranh chấp chủ quyền tham lam và phi lý mà Trung Quốc đang theo đuổi một cách hung hãn.[36]



Thật ra, bản đồ China Proper của Jean-Baptiste Bourguignon d’Anville, xuất bản năm 1735 không có Senkaku, Hoàng Sa và Trường Sa… chỉ là một trong số hàng trăm bản đồ cổ do các nước phương Tây xuất bản, vẽ lãnh thổ Trung Quốc mà không có các quần đảo này.
Trong fond tư liệu bản đồ thuộc đề tài Fond tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với huyện đảo Hoàng Sa - Thành phố Đà Nẵng có 20 bản đồ Trung Quốc, xuất bản ở phương Tây từ đầu thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XX, đều vẽ lãnh thổ Trung Quốc tương tự bản đồ China Proper của Jean-Baptiste Bourguignon d’Anville. 


Ngoài ra còn có 50 bản đồ khác vẽ lãnh thổ Trung Quốc không hề có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điểm chung của những bản đồ này là cương giới Trung Quốc luôn được tô khác màu, hoặc được giới hạn bằng những đường kẻ đậm nét để phân biệt với cương giới của các nước láng giềng và cương giới Trung Quốc luôn chỉ giới hạn đến cực nam của đảo Hải Nam mà thôi. Đó là các bản đồ sau:

1. The Kingdom of China, do Vintage China Orient Map (Anh) ấn hành năm 1626.
2. Qvangxi, do Jacob Van Meurs (Hà Lan) thực hiện năm 1665.
3. L’Empire da la Chine, do Geographe ordinaire du Roi, Avec Privilege (Pháp) ấn hành năm 1751.
4. China, do Thomson’s New General Atlas ấn hành tại Edinburgh (Anh) năm 1815.
5. China, do A Gerneral Atlas, Fielding Lucas Jr.’s ấn hành tại Baltimore (Hoa Kỳ) năm 1823.
6. China, do The General Gazeteer Geographical Dictionary ấn hành tại Berwick (Anh) năm 1823.
7. China, do Maps of the Diffusion of Useful Knowledge, Baldwin & Cradock ấn hành tại London (Anh) năm 1834.
8. China, do Tanner’s Universal Atlas, Henry S. Tanner ấn hành tại Philadelphia (Hoa Kỳ) năm 1836.
9. China and Burma, do Illustrations by A.H.Wray - Engraved by J.B. Allen & J. Rapkin ấn hành tại London (Anh) năm 1851.
10. China, do Family Atlas, Johnson & Browning ấn hành tại New York (Hoa Kỳ) năm 1860.
11. Asia, do Mitchell’s Modern Atlas, E.H. Butler ấn hành tại Philadelphia (Hoa Kỳ) năm 1867.
12. China and Japan, do The Atlas of The World, Johnsons Atlas, ấn hành tại New York (Hoa Kỳ) năm 1869.
13. China Proper, do The National Encyclopedia, William Mackenzie, ấn hành tại London (Anh) năm 1880.
14. China, Korea and Japan, do London Geographical Institute ấn hành tại London (Anh) năm 1880.
15. Chinese Empire and Japan, do Blackie & Son ấn hành tại London (Anh) năm 1880.
16. China, do Encyclopedia Britannica, W & A.K Johnston ấn hành tại London (Anh) năm 1881.
17. Map of Southern China, do Royal Geographical Society ấn hành tại London (Anh) năm 1882.
18. China, do John Murray ấn hành tại London (Anh) năm 1883.
19. China, do Cram’s Atlas ấn hành tại Chicago (Hoa Kỳ) năm 1885.
20. China and Japan, do Royal Atlas, W. & A. K. Johnston ấn hành tại Edinburgh (Anh) năm 1888.
21. China, do Handy Reference Atlas ấn hành tại Edinburg (Anh) năm 1888
22. China, Burma, Siem and Annam, do Atlas of the World, Bacon’s Geographical Establishment ấn hành tại London (Anh) năm 1891.
23. China, do International Cyclopedia, Dodd, Mead & Company, Buffalo ấn hành tại New York (Hoa Kỳ) năm 1891.
24. China, do Atlas of Universal Geography, Edward Stanford ấn hành tại London (Anh) năm 1892.
25. China, do Columbian Atlas of the World, Hunt & Eaton ấn hành tại New York (Hoa Kỳ) năm 1893.
26. Ubersichtskarte von China und Japan, do Hand-Atlas, Verlag Von Velhagen & Klasing ấn hành tại Leipzig (Đức) năm 1893.
27. China, do The World Wide Atlas, W & A.K Johnston ấn hành tại London (Anh) năm 1893.
28. China and Tibet, do Harmsworth Atlas and Gazeteer ấn hành tại London (England) năm 1895.
29. China and Japan, do The Century ấn hành tại London (Anh) năm 1895.
30. China and Japan, do Edinburgh Geographical Institute ấn hành tại Westminster (Anh) năm 1896.
31. Chine et Corée, do Nouvel Atlas Illustre Geographie Universelle ấn hành tại Paris (Pháp) năm 1896.
32. China Empire and Japan, do Citizen’s Atlas of the World ấn hành tại London (Anh) năm 1898.
33. Chinese Empire, do Cram Atlas, George F. Cram ấn hành tại Chicago (Hoa Kỳ) năm 1899.
34. China and Japan, do Keith Johnson’s General Atlas ấn hành tại London (Anh) năm 1899.
35. Map of China, do G.W. Bacon Company ấn hành tại London (Anh) năm 1900.
36. Route Map Showing Journey from St Petersburg to Gulf of Tongking do Harper & Brothers ấn hành tại London (Anh) năm 1900.
37. Southern China and Adjoining Countries, do Harper & Brothers ấn hành tại London (Anh) năm 1900.
38. Asia, do Crowell & Kirkpatrick ấn hành tại Ohio (Hoa Kỳ), năm 1901.
39. China, Manchuria, Mongolia and Korea, do Dodd, Mead & Company, Buffalo ấn hành tại New York (Hoa Kỳ) năm 1903.
40. China, Eastern Part, do Encyclopedia Britannica 10th Edition ấn hành tại London (Anh) năm 1903.
41. Chinese Empire, do Business Atlas, Rand McNally ấn hành tại Chicago (Hoa Kỳ) năm 1904.
42. China, do Universal Geography, Edward Stanford ấn hành tại London (Anh) năm 1904.
43. China, do Cassell and Company ấn hành tại London (Anh) năm 1910.
44. China and Japan, do Cassell’s Atlas, Edinburgh Geographical Institute ấn hành tại London (Anh) năm 1910.
45. China, Siam and Annam, do Bacon’s Popular Atlas of The World ấn hành tại London (Anh) năm 1912.
46. China, do Stieler’s Hand-Atlas ấn hành tại London (Anh) năm 1912.
47. Empire of China and Japan, do The Century Atlas and Gazeteer of The World ấn hành tại London (Anh) năm 1912.
48. China, do Atlas of the World ấn hành tại London (Anh), năm 1914.
49. Asia Eastern Part, do Complete Atlas of the World ấn hành tại New York (Hoa Kỳ) năm 1919.
50. China Political, do The Time Atlas, Edinburgh Geographical Institute ấn hành tại London (Anh) năm 1920.
51. China, do The Atlas of The World, Allace Scott ấn hành tại London (Anh) năm 1921.
52. China, do The Times Atlas, Edinburgh Geographical Institute ấn hành tại London (Anh) năm 1922.
53. China Political, do The Times Atlas, Edinburgh Geographical Institute ấn hành tại London (Anh) năm 1922.
54. Ostasien, do Meyer Gross Hand-Atlas ấn hành tại Leipzig (Đức) năm 1928.
55. Ostasien, do Minerva Atlas Hand-Atlas fuer das Deutsche Volk ấn hành tại Leipzig (Đức) năm 1928.
56. China and Dependencies, do Hammond’s Loose Leaf Atlas ấn hành tại New York (Hoa Kỳ) 1929.
57. China, do United China Relief ấn hành năm 1930.
58 Eastern China, do London Geographical Institute ấn hành tại London, (Anh) năm 1934.
59. Asie Politique, do Atlas Universel de Geographie, Librairie Hachette ấn hành tại Paris (Pháp) năm 1937.
60. China and Japan, do Commercial Atlas, Rand McNally ấn hành tại Chicago (Hoa Kỳ) năm 1942.
61. China, do National Geographic Magazine ấn hành tại Washington (Hoa Kỳ) năm 1945.
62. China and Japan, do C.S. Hammond & Company ấn hành tại New York (Hoa Kỳ) năm 1947.
63. Chine, do Nouveau Dictionnaire Encyclopédique, Librairie Larousse ấn hành tại Paris (Pháp) năm 1948.
64. China Coast and Korea, do National Geographic Magazine ấn hành tại Washington (Hoa Kỳ) năm 1953.
65. The War with Japan, do Frederick A Praeger ấn hành tại New York (Hoa Kỳ), năm 1959.
66. China, do National Geographic Magazine ấn hành tại Washington (Hoa Kỳ) năm 1965.
67. Fuels and Power, do Bureau of Mines, Department of Interior ấn hành tại Hoa Kỳ năm 1975.
68. China, do Johnson Map (Hoa Kỳ) ấn hành năm 1979.
69. Oil and gas map of China do Petroleum News SE Asia ấn hành tại Hong Kong năm 1979.
70. The Peoples of China, do National Geographic Society ấn hành tại Washington (Hoa Kỳ) năm 1980.

Tóm lại, cùng với thư tịch cổ, bản đồ cổ Việt Nam do Việt Nam và nhiều bản đồ liên quan đến Việt Nam do các nước phương Tây xuất bản trong các thế kỷ XVI - XIX đều khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hoặc ghi nhận Việt Nam có mối liên hệ mật thiết với hai quần đảo này từ rất lâu trong lịch sử. Cùng với các nguồn thư tịch liên quan, các bản đồ này là nguồn tư liệu bổ sung những thông tin xác thực, có giá trị lịch sử và pháp lý chứng minh chủ quyền lâu đời của Việt Nam đối với hai quần đảo này cũng như nhiều vùng biển đảo khác của Việt Nam.

Trong khi đó, những bản đồ do chính Trung Quốc xuất bản trong gần 2.000 năm qua thì: hoặc là không ghi nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, hoặc trực tiếp hay gián tiếp ghi nhận hai quần đảo này thuộc về Giao Chỉ quốc, Giao Châu, An Nam quốc…, là những danh xưng mà sử liệu Trung Hoa gọi nước ta trước đây. Điều này cho thấy trong khi các bản đồ cổ Việt Nam nhất quán khẳng định Hoàng Sa - Trường Sa thuộc về Việt Nam, thì bản đồ cổ Trung Quốc cũng nhất quán ghi nhận hai quần đảo này không liên quan gì đến cương giới, lãnh thổ Trung Quốc. Điều này, một lần nữa được xác nhận bởi hàng trăm bản đồ Trung Quốc do các nước phương Tây xuất bản từ đầu thế kỷ XVI đến thập niên 80 của thế kỷ XX. 




















CHÚ THÍCH
[20]. Vũ Quang Việt, “Bản đồ nhà Thanh do hoàng đế Khang Hi sai vẽ xác định cương vực của Trung Quốc chấm dứt ở đảo Đải Nam”, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai…/201431_VuQuangViet.pdf.
[21]. Do kết quả đo vẽ khu vực Tân Cương không chính xác nên bản đồ hai khu vực này chưa hoàn thành. Đến năm 1719, hai khu vực Tân Cương và Tây Tạng mới được đưa vào Hoàng dư toàn lãm đồ. Tập bản đồ này còn được tái ấn vào năm 1721 (tỉ lệ 1:1.200.000), gồm 32 tờ. Dẫn theo: Vũ Quang Việt, “Bản đồ nhà Thanh do hoàng đế Khang Hi sai vẽ xác định cương vực của Trung Quốc chấm dứt ở đảo Đải Nam”. http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai…/201431_VuQuangViet.pdf. Truy cập ngày 10.7.2014.
[22]. Cổ kim đồ thư tập thành là bách khoa thư của triều Thanh, 5.020 tập, gồm các minh họa và trước tác từ thời thượng cổ đến thời kỳ đầu triều đại này. Bộ bách khoa thư được khởi soạn dưới triều Khang Hi, hoàn tất năm 1726 và khắc in năm 1728 dưới triều Ung Chính (1723 - 1735). Bộ sách gồm 800.000 trang, 100 triệu chữ, ghi chép từ các hiện tượng tự nhiên, địa lý, lịch sử, văn chương đến bộ máy nhà nước của các triều đại Trung Quốc. Số lượng bản in năm 1728 là 60 bản. Dẫn theo: Vũ Quang Việt, “Bài đã dẫn”. Truy cập ngày 10.7.2014.
[23], [24], [25], [27]. Dẫn theo: Phạm Hoàng Quân, “Tây Sa và Nam Sa trong sử liệu Trung Quốc”, Ngày 11.12.2007, http://www.nguyenthaihocfoundation.org/…/hsts_tsns_suTrungH…. Truy cập ngày 22.12.2009.
[26]. Đông nam dương các quốc diên cách đồ: Bản đồ về sự thay đổi địa giới của các nước ở biển đông nam.
[28]. Atlas là tập bản đồ theo một chủ đề nào đó, chẳng hạn: bản đồ hành chính, bản đồ tự nhiên, bản đồ bưu chính…
[29]. 中國地圖: Trung Quốc địa đồ.
[30]. 中國全圖: Trung Quốc toàn đồ.
[31]. 中華郵政與圖: Trung Hoa bưu chính dư đồ.
[32]. Bốn atlas này do kỹ sư Trần Thắng ở bang Connecticut (Hoa Kỳ) phát hiện vào năm 2012. Ông Trần Thắng đã mua Atlas of the Chinese Empire / 中國地圖 (xuất bản năm 1908) và Atlas Postal de Chine / 中華郵政與圖 / Postal Atlas of China (xuất bản năm 1919) gửi về tặng cho Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng. Riêng Atlas Postal de Chine / 中華郵政與圖 / Postal Atlas of China (tái bản năm 1933) thì do UBND huyện Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng bỏ tiền mua. Ba atlas này hiện đang được lưu giữ tại thành phố Đà Nẵng. Complete Atlas of the China / 中國全圖 hiện vẫn do một nhà sưu tập bản đồ ở Hoa Kỳ sở hữu.
[33]. Hải giác thiên nhai nghĩa là “góc biển, chân trời”, cũng có khi viết là Thiên nhai hải giác nghĩa là “chân trời góc biển”, ý nói đó là nơi “cùng trời cuối đất”, tức là phần tận cùng của đất nước Trung Quốc.
[34]. Theo: Địa lý song khẩu, Đương Án xuất bản xã, 1988. Dẫn theo: Phạm Hoàng Quân, “Bài đã dẫn”. Truy cập ngày 22.12.2009.
[35]. Hải khoát thiên không nghĩa là “biển rộng vô bờ”. Tôi được ông Lê Hiếu Hữu, một người Việt đã đi du lịch tới Du Lâm (Hải Nam, Trung Quốc) năm 2007, tặng bức ảnh chụp tảng đá có khắc dòng chữ này (Ảnh cuối cùng). Xem: https://www.facebook.com/photo.php….
[36]. Xem thông tin về sự kiện này tại các link sau:
http://tuoitre.vn/…/qua-ban-do-nhay-cam-cua-thu-tuong-merke…; http://time.com/…/angela-merkel-xi-jinping-china-germany-m…/; http://www.foreignpolicy.com/…/…/01/merkel_map_message_china; http://www.smh.com.au/…/angela-merkels-historical-china-map…...
Ghi chú: Các bản đồ từ 23, 24, 27 dùng trong bài này là do ThS Chử Đình Phúc (VASS) cung cấp. Bản đồ 25 do nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn công bố trên báo Thanh Niên. Các bản đồ 28 - 30 do kỹ sư Trần Thắng trao tặng cho Viện Nghiên cứu Phát triển KT-XH Đà Nẵng.

Trần Đức Anh Sơn

GÓC TƯ LIỆU CỦA BẠN cập nhật bởi Hoàng Kim

Tình hình biển Đông có gì mới




HOCMOINGAY. Tình hình biển Đông có gì mới. 14.11.2014.  Hội nghị cấp cao ASEAN – Trung Quốc (VTV); Trung Quốc đề xuất hiệp ước hữu nghị với ASEAN (TT);  ASEAN và Trung Quốc cùng đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông (Zing); Indonesia cảnh giác với Trung Quốc ở Biển Đông (Tin Tức);  Mỹ muốn thắt chặt thêm quan hệ với ASEAN trong chiến lược xoay trục (RFI);  Thượng đỉnh Đông Á: Trung Quốc tung chiêu mới về Biển Đông (RFI); Ấn Độ không ngần ngại nêu tranh chấp Biển Đông tại Thượng đỉnh Đông Á (RFI);Thủ tướng VN: ‘Biển Đông vẫn phức tạp’ (BBC);  Thủ tướng yêu cầu giữ nguyên trạng Biển Đông (VNN); Thủ tướng: Cần có tầm nhìn dài hạn trong phát triển ở Đông Á (TTXVN); Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh trả lời về kết quả hội nghị cấp cao ASEAN (VOV).
 

H1 
Thủ tướng tham dự các Hội nghị Cấp cao ASEAN với các đối tác (TGVN);  Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp chính thức Tổng thống Obama; Tổng Thống Obama muốn thắt chặt quan hệ với Việt Nam (VOA);  Hoa Kỳ sửa đổi chính sách xuất khẩu vũ khí sang Việt Nam (VOA); 
 
Tư liệu bản đồ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa – Phần 1 (FB Trần Đức Anh Sơn); Tư liệu bản đồ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa – Phần 2  (FB Trần Đức Anh Sơn); Mao Trạch Đông và Biển Đông Việt Nam (Điểm Chính).
 
Tình hình biển Đông có gì mới ?

Sông Mekong thông tin 2014



Video yêu thích  http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam

Trở về trang chính 
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, foodcrops.vnKhát khao xanh, DayvahocHọc mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Câu chuyện ảnh, 5 phút thư giản, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sốngThơ cho con