
VIỆT NAM TỔ QUỐC TÔI. Chào ngày mới 2 tháng 9.
Chào ngày mới Việt Nam. Hôm nay là ngày Quốc khánh Việt Nam (1945) ngày
mất của chủ tịch Hồ Chí Minh (1969). Việt Nam phải ba mươi năm sau ngày
Quốc khách mới đạt được một đất nước thống nhất (1975), và phải hơn ba
mươi năm sau nữa vết thương chia cắt mới dần lành lặn, và có lẽ phải hơn
ba mươi năm sau nữa chất lượng cuộc sống, dân chủ tự do, môi trường
trong lành mới an tâm hơn. Thống nhất, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc vẫn vừa
là động lực vừa là mục tiêu của con đường Việt Nam đi tới. Đọc lại và
suy ngẫm về thống nhất, tài liệu trích dịch của Phan Ba. Nguyễn Cao Kỳ: Thống nhất là mục tiêu lịch sử của mọi người Việt. "Chúng
tôi gọi miền Bắc là vệ tinh của Nga và họ gọi chúng tôi là bù nhìn của
Mỹ. Cả hai đều không đúng: chúng tôi là những người dân tộc chủ nghĩa,
là người Việt. Chúng tôi đã và đang là một nước nhỏ và nghèo. Tôi thật
đau lòng khi một vài người vẫn còn nghĩ rằng chúng tôi chiến đấu cho Hoa
Kỳ hay cho ai đó, nhưng không cho Việt Nam. Ngày nay, đất nước lại
thống nhất. Đó là mục tiêu lịch sử của mọi người Việt. Tất nhiên là
chúng tôi phải giải quyết nhiều vấn đề; có kẻ thắng và người thua. Và có
nhiều điều tàn ác trong vòng 25 năm vừa qua trong người Việt, nhưng
chúng tôi đã đạt tới mục tiêu của chúng tôi – thống nhất đất nước.".
THỐNG NHẤT LÀ MỤC TIÊU LỊCH SỬ CỦA MỌI NGƯỜI VIỆT
Nguyễn Cao Kỳ
(Theo Phan Ba Truyện dịch - Sách dịch)
Tháng Chín 1, 2014
Nguyễn Cao Kỳ
Nguyễn Cao Kỳ là thủ tướng từ 1965 tới 1967 và phó tổng thống Nam Việt Nam từ
1967 tới 1971. Sinh ra ở gần Hà Nội, ông học tại một học viện quân đội
Việt Nam vào cuối những năm 40 và sang Paris từ 1951 cho tới 1954 để
được đào tạo thành phi công. Sau cuộc đảo chính Diệm năm 1963, ông chỉ
huy lực lượng Không quân Nam Việt Nam. Trong thời gian nhậm chức thủ
tướng, ông đã phá vỡ lực lượng đối lập của Phật giáo trong đất nước với
những biện pháp tàn bạo, chạy sang Hoa Kỳ năm 1975 dưới sự bảo vệ của
người Mỹ và ngày nay là doanh nhân ở đó.
Vào
cuối cuộc chiến tranh chống Pháp – sau Hiệp định Genève năm 1954 – Việt
Nam bị chia ra thành miền Bắc và miền Nam. Nam Việt Nam trở thành một
cái gì đó giống như tiền đồn của cuộc Chiến tranh Lạnh. Đó không phải là
quyết định của nhân dân Việt Nam, đó là một thỏa thuận của các cường
quốc.
Chúng
tôi gọi miền Bắc là vệ tinh của Nga và họ gọi chúng tôi là bù nhìn của
Mỹ. Cả hai đều không đúng: chúng tôi là những người dân tộc chủ nghĩa,
là người Việt. Chúng tôi đã và đang là một nước nhỏ và nghèo. Tôi thật
đau lòng khi một vài người vẫn còn nghĩ rằng chúng tôi chiến đấu cho Hoa
Kỳ hay cho ai đó, nhưng không cho Việt Nam. Ngày nay, đất nước lại
thống nhất. Đó là mục tiêu lịch sử của mọi người Việt. Tất nhiên là
chúng tôi phải giải quyết nhiều vấn đề; có kẻ thắng và người thua. Và có
nhiều điều tàn ác trong vòng 25 năm vừa qua trong người Việt, nhưng
chúng tôi đã đạt tới mục tiêu của chúng tôi – thống nhất đất nước.
Đầu
những năm sáu mươi, chính phủ Nam Việt Nam bắt đầu yếu đi. Có những
căng thẳng trầm trọng với người theo đạo Hồi và đạo Phật. Vào thời gian
này, tôi là sĩ quan cấp dưới, không tham gia hoạt động chính trị. Sau
lần giết chết Diệm trong tháng Mười một 1963, Nam Việt Nam bước vào một
thời kỳ hết sức không ổn định. Có đảo chính và phản đảo chính, hầu như
mỗi ngày, mỗi tuần. Trong vòng hai năm – từ 1963 tới 1965 – có cho tới
bảy hay tám chính phủ quân đội và dân sự khác nhau. Chính phủ cuối cùng
trước nhiệm kỳ của tôi là một chính phủ dân sự. Người đứng đầu nhà nước
thuộc một đảng khác với thủ tướng. Thế là họ chống nhau và vì vậy mà
cuối cùng không thể cầm quyền.
Vào một đêm nào đó, chúng tôi nhận
được một lời yêu cầu từ người đứng đầu nhà nước và thủ tướng, hãy tới
tìm họ trong văn phòng nhà nước. Khi chúng tôi đến đó, họ tuyên bố:
“Chúng tôi từ chức và giao quyền lực cho các anh, giới quân đội.” Lúc
đầu, chúng tôi cố thuyết phục họ đừng từ chức, vì sau bao nhiêu đảo
chính và phản đảo chính chúng tôi thật sự là đã quá chán ngán chính trị
vào thời gian này. Chúng tôi không muốn bị lôi kéo vào việc đó. Chúng
tôi cố thuyết phục họ năm, sáu tiếng, nhưng vào khoảng một giờ sáng thì
lời nói không của họ là chắc chắn. Hết sức mệt mỏi, chúng tôi trở về
nhà, để rồi lại gặp nhau vào ngày hôm sau – lần này thì chỉ những người
chủ huy quân đội. Chúng tôi phải thành lập một chính phủ mới, để nghị
một vài cái tên, nhưng không ai muốn nhận lấy trách nhiệm nặng nề này.
Thật là kỳ lạ: trước đó thì tất cả đều tranh giành lấy chức vụ này, rồi
thì không ai muốn nó. Hai ngày sau đó, người ta đến gặp tôi và đề nghị
tôi. Nếu đó là ý muốn của quân đội và nhân dân thì tôi còn phải nói gì?
Thế là vào ngày hôm sau đó, tôi trở thành thủ tướng trẻ tuổi nhất của
toàn cuộc chiến. Tôi chưa từng bao giờ xin vị trí đó, chưa từng bao giờ
tranh giành nó, tôi là người lính, phi công lái máy bay chiến đấu. Nhưng
là người châu Á thì tôi tin vào số phận.
Dinh Gia Long trong lúc đảo chánh năm 1963
Sau
cuộc họp đó, quân đội mời tôi nhận trách nhiệm lập chính phủ, để bình
thường hóa tình hình. Tôi rất hãnh diện, rằng tôi đã làm tròn nhiệm vụ
của mình – lo ổn định, phác thảo một hiến pháp mới và tiến hành bầu cử.
Sau đó, tôi từ chức, để trở về với quân đội. Nếu như tôi ham muốn quyền
lực thì tôi đã có thể ngồi lại trên ngai vàng của tôi, vào lúc đó, tôi
là người có nhiều quyền lực nhất ở Việt Nam. Nhưng tôi ghét chính trị.
Người ta không thể là một nhà chính trị thành công khi người ta thật
thà.
Vấn đề lớn nhất là toàn bộ sự lộn xộn mà tôi phải tiếp nhận
sau hai năm tranh cãi nội bộ. Thêm vào đó là xâm lược của miền Bắc. Đó
là một việc rất khó khăn, khi chúng tôi phải chống lại quân du kích và
thêm vào đó là quân đội chính quy Bắc Việt. Là sai lầm khi nói rằng cuộc
Chiến tranh Việt Nam mà một cuộc xung đột chỉ giữa Nam Việt Nam và Việt
Cộng hay chỉ giữa Mỹ và Việt Cộng. Đó là một cuộc chiến giữa miền Bắc
và miền Nam thì nhiều hơn.
Thời
đó tôi còn rất trẻ, mới 35, và không phải là chính trị gia. Tôi không
biết gì ngoài lái máy bay. Nhưng là thủ tướng thì tôi luôn cố làm điều
tốt nhất cho đất nước tôi. Nhiều người có thể hoàn toàn không biết: đó
xuất phát từ sáng kiến của tôi, việc Hoa Kỳ rút quân đội của họ về.
Vâng, tôi đề cập tới vấn đề đó với ngài Nixon khi tôi đến thăm ông ấy
trong Nhà Trắng. Tôi nói với ông ấy, rằng trước bầu không khí phản chiến
trong người dân Mỹ thì trước sau người ta cũng phải rút các đơn vị ra
khỏi Việt Nam. Thế thì tại sao không ngay từ bây giờ? Nixon dường như
nhẹ nhỏm, đồng ý. Nhưng ông ấy còn đưa ra vài câu hỏi: “Anh có tin rằng
quân đội Nam Việt có thể tiến hành cuộc chiến một mình hay không?” Tôi
nói với ông, đã đến lúc phải đối phó với thực tế. Một ngày nào đó thế
nào đi nữa thì ông phải rút lui. Tức là tốt hơn thì hãy sắp xếp ngay từ
bây giờ, để sau này những người lính Nam Việt có khả năng tự khẳng định
mình.
Thế là Nixon gọi điện cho bộ trưởng Bộ Quốc phòng, và vào
ngày hôm sau đó họ sắp xếp một cuộc gặp gỡ với tất cả những người có
trách nhiệm trong Lầu Năm Góc. Lần đầu tiên chúng tôi nói chính thức về
việc rút quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam. Và tôi nhớ rằng tất cả chúng tôi
đều thống nhất với nhau rằng đó là con đường đúng đắn duy nhất. Rồi còn
bàn về cái tên chính thức cho kế hoạch. Họ muốn gọi nó là “phi Mỹ hóa”
cuộc chiến. Tôi không đồng ý, vì điều đó có nghĩa là cho tới bây giờ đó
thuần túy là một cuộc chiến của Mỹ. Cuối cùng, chúng tôi thỏa thuận cái
tên “Việt Nam hóa”.
Sự hợp tác giữa quân đội Mỹ và các lực lượng
Nam Việt Nam tương đối tốt, ví dụ như quan hệ giữa tướng Westmoreland và
tổng tư lệnh của người Việt hay cả quan hệ cá nhân của tôi với ông ấy
và với tất cả các viên chỉ huy Mỹ. Đó là một quan hệ thân thiện, đầy sự
thông hiểu. Tôi tôn trọng họ. Tôi nghĩ mặc dù tôi rất trẻ nhưng cả họ
cũng tôn trọng tôi. Đặc biệt là tổng thống Johnson. Tôi nhớ lại một cuộc
họp ở Honolulu. Vào buổi tối có tiệc chiêu đãi lớn. Johnson bất chợt
bước đến với tôi và nói: “Thiếu tướng, mời ông đi theo tôi!” Hai chúng
tôi vào phòng ngủ của ông. Ở đó, ông ấy giải thích cho tôi. “Tất cả
những lời nói đó trước báo chí hay trên hội nghị và hội họp – anh hãy
quên nó đi. Tất cả chỉ là một việc giữa anh và tôi. Chúng ta đưa ra một
quyết định. Tức là chỉ hai chúng ta thôi!” Đó là một ví dụ cho việc họ
thật sự tôn trọng tôi.
Với sự thông hiều ngày nay của tôi về nhân
dân Mỹ – tôi sống từ 24 năm nay ở Hoa Kỳ – về hệ thống và về đất nước,
tôi nhận ra rằng tôi đã không thật sự hiểu người Mỹ vào thời đó. Khi
nhìn lại, tôi nhận ra rằng cả họ cũng không hiểu người Việt. Giá như
thời đó mà tôi có được kiến thức của ngày nay thì các quan hệ của chúng
tôi đã có thể được tạo dựng tốt hơn rất nhiều. Tôi đã có thể xin sự trợ
giúp, không phải xin chính phủ Hoa Kỳ mà là nhân dân Mỹ.
Năm
1968, tôi từ chức thủ tướng và tổ chức bầu cử. Người ta mời tôi đảm nhận
trách nhiệm thêm một lần nữa. Thế là tôi trở thành phó tổng thống trong
bốn năm. Sau nhiệm kỳ chính phủ năm 1971, tôi lui ra khỏi chính trường
hoàn toàn. Mặc dù tôi vẫn còn cấp bậc của một thống chế, tôi sống hoàn
toàn ẩn dật như một người nông dân ở nông thôn.
Từ
tháng Ba cho tới tháng Sáu 1966 đã xảy ra nhiều cuộc bạo loạn Phạt giáo
ở Huế và Đà Nẵng. 180 người chết và hơn 700 người bị thương trong thời
gian đó.
Khi
quân đội Mỹ rút năm 1973, Nam Việt Nam phải chống chọi một mình với du
kích quân và người Bắc Việt. Cùng với lần rút quân, sự hỗ trợ của Hoa Kỳ
về kinh tế và quân sự tiến về gần tới con số không. Bắc Việt có sự giúp
đỡ của Nga và Trung Quốc. Vì thế mà kết cuộc là không thể tránh khỏi.
Nhưng nó đến quá nhanh, quá đột ngột, chỉ trong vòng 30 ngày – đó là một
thảm bại.
Hai tuần trước khi kết thúc, mọi người đều đến gặp
tôi, quân đội, chính khách, người Phật giáo, người Công giáo – tất cả.
Và họ nói: “Anh là hy vọng cuối cùng của chúng tôi. Xin hãy làm gì đó!”
Nhưng tất nhiên là tôi đã nhận thấy rằng tất cả đã quá muộn. Đến người
Mỹ không cũng muốn chúng tôi ở lại và chiến đấu. Tôi còn nhớ tôi đã gặp
đại sứ Hoa Kỳ. Tôi hỏi ông, liệu chúng tôi có thể tổ chức quân đội ở
vùng châu thổ để tiếp tục chiến đấu với sự giúp đỡ của người Mỹ hay
không. Ông ấy nói: “Không. Anh đừng nghĩ về một điều như vậy. Ngày mai
chúng tôi sẽ biến đi. Và anh đi cùng với chúng tôi.” Vào buổi sáng ngày
29 tháng Tư 1975 tôi một mình ở trong sở chỉ huy của tổng tư lệnh. Khi
tôi cố liên lạc với các chỉ huy dù và thủy quân lục chiến thì tất cả đều
đã bỏ đi rồi. Tôi còn ở lại một mình với một chiếc máy bay trực thăng,
mười người lính gác và người phục vụ. Vào lúc hai giờ trưa họ nói với
tôi: “Thiếu tướng, xin hãy đi đi. Thiếu tướng còn làm gì được nữa?”
Ngày
nay vẫn còn có người nghĩ rằng Việt Nam gồm hai nước, miền Bắc và miền
Nam. Nhưng chỉ tồn tại một Việt Nam thôi. Người ta phải chấp nhận sự
thật, rằng đất nước ngày nay đã thống nhất và tự do. Nhưng hệ thống đó
không tốt. Điều mà chúng tôi phải đấu tranh cho nó là một trật tự dân
chủ. Chúng tôi cần một sự biến đổi hệ thống, cần những người lãnh đạo
tốt, suy nghĩ và hành động cho nhân dân, Những người ngày nay chiếm các
vị trí lãnh đạo ở Việt nam biết vấn đề đó. Họ biết nếu cứ tiếp tục như
cho tới nay thì sẽ không còn có chỗ cho họ trong thế kỷ 21. Bầu cử và mở
cửa Việt Nam là không thể tránh khỏi.
Nhiều người Việt lưu vong,
di cư sang Mỹ, đã nhập tịch. Tôi là người duy nhất vẫn còn quốc tịch
Việt. Lần nào tôi rời đất nước này thì tôi đều phải xin phép được tái
nhập cảnh. Hải quan và cơ quan di dân hiện giờ đã biết mặt tôi. Và đại
sứ của những nước mà tôi xin thị thực đều nói: “Kỳ, hoàn toàn không phải
là vấn đề!” Bây giờ tôi đã 70 tuổi, và trong thời gian còn lại của tôi,
tôi sẽ làm tất cả để Việt Nam có thể sống trong hòa bình và thịnh
vượng. Giấc mơ của tôi là trở về, làm nông dân và chơi đánh golf.
Phan Ba trích dịch từ “Apokalypse Vietnam”
Đọc những bài phỏng vấn khác ở trang Chiến tranh Đông Dương
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con